Việt Nam và Hoa Kỳ cùng là “người
thân”?
Trong thời gian hơn hai mươi năm
đất nước Việt Nam bị chia cắt vì hai chủ thuyết tư bản và cộng sản. Từ năm 1954
đến năm 1975, miền Bắc theo Chủ Nghĩa Cộng Sản độc đảng chuyên chế dưới sư trợ
giúp tối đa của cường quốc cộng sản Liên Xô với sức mạnh vũ khí và của Trung
Cộng với sức mạnh nhân số, miền Nam được chuyển đổi từ chế độ quân chủ sang chế
độ Cộng Hòa pháp trị.
Ngay tại thời điểm năm 1954, lực
lượng quân đội tại miền Bắc đã rất đông với hàng trăm ngàn quân lính (240.000
lính chính qui và hơn một triệu quân bán chính qui)* và được hai nước cộng sản
lãnh đạo đàn anh, Liên Xô và Trung Quốc, cung cấp đầy đủ về các mặt quân cụ,
hậu cần và kinh tế để tiến hành cuộc chiến chinh phục Miền Nam, chủ tâm thực
hiện chế độ cộng sản chuyên chính trên toàn lãnh thổ Việt Nam bằng vũ lực,
trong đại kế hoạch nhuộm đỏ toàn thế giới của cộng sản quốc tế.
Trong khi đó miền Nam Việt Nam
vừa bắt đầu xây dựng một thể chế tự do dân chủ theo phương cách của các chế độ
tư sản và đa đảng trên thế giới, chỉ có một lực lượng quân đội non trẻ và được
Hoa Kỳ trợ giúp nhằm khả dĩ có đủ sức mạnh quân sự để bảo vệ nền cộng hòa. Thời
gian miền Nam được sống thực sự trong hòa bình để xây dựng đất nước thật rất
ngắn ngủi và có thể nói rằng không có được bao nhiêu ngày, nhưng phải lập tức
hứng chịu cuộc chiến tranh quốc cộng đẫm máu. Để ngăn chặn sự bành trướng của
chủ nghĩa cộng sản tại vùng Đông Nam Á và Châu Á, Hoa Kỳ đã chủ động giúp đỡ
miền Nam Việt Nam về quân sự và kinh tế để có đủ khả năng chống lại lực lượng
quân đội chính qui hùng hậu xâm nhập từ miền Bắc Việt Nam và lực lượng du kích
cài lại tại Miền Nam.
Thay vì để cho hai miền Nam-Bắc
cùng sống chung và phát triển trong hoà bình, thành phần lãnh đạo đảng Cộng Sản
tại miền Bắc đã quyết tâm sẵn sàng hy sinh tất cả, kể cả sinh mạng của toàn
dân, cùng với sự chu cấp không giới hạn toàn bộ vũ khí, quân dụng và hậu cần từ
khối cộng sản toàn cầu mà chính yếu từ Liên Xô và Trung Cộng, để đánh chiếm
toàn Miền Nam.
Trong tình trạng đó, miền Nam phải
chống đỡ một cuộc chiến không cân sức. Trợ giúp của Hoa Kỳ và quốc tế càng lúc
càng giảm, và cuối cùng thì bị cắt đứt toàn bộ. Hoa Kỳ phải chấm dứt tham chiến
và ngưng viện trợ quân sự cho Miền Nam Việt Nam do áp lực của các thế lực thiên
cộng và phản chiến mù quáng tại Mỹ và các nước. Cuộc nội chiến không cân sức
Bắc Nam đã chấm dứt với thắng lợi đương nhiên của chế độ cộng sản tại Miền Bắc.
Tài liệu tiết lộ gần đây cho biết
sau khi đã thương lượng và tái lập được bang giao với Bắc kinh, Mỹ đã thoả thuận
ngầm với Trung Cộng rời bỏ Miền Nam Việt để được lợi ích nhiều hơn về cả sự hợp
tác kinh tế với Bắc Kinh và sách lược đối đầu với khối cộng sản Liên Xô.
Trong thời gian 1954 -1975 Hoa Kỳ
đã viện trợ cho Miền Nam Việt Nam tổng cộng khoảng 26 tỷ USD, trong đó viện trợ
quân sự 16 tỷ USD, viện trợ kinh tế khoảng 6 Tỷ USD. Tổng số chi phí cho cuộc
chiến tại Việt Nam mà Hoa Kỳ phải gánh chịu lên đến hơn 900 tỷ USD, gấp hơn 3
lần so với chi phí của Hoa Kỳ cho thế chiến thứ 2. Chi phí của các nước trong
khối cộng sản cũng rất cao, tuy họ không chính thức công bố nhưng cũng lên đến
hằng trăm tỷ USD.**
Các lực lượng quân đội nước ngoài
tham chiến tại Việt Nam bị tổn thất cao nhất là Hoa Kỳ với 58.200 quân nhân tử
trận,1900 mất tích, và khoảng 300.000 quân nhân bị thương; kế đến Nam Hàn với
5.000 quân nhân tử trận, 11.000 bị thương; Phi Luật Tân với 552 quân nhân tử
trận; Úc với 426 quân nhân tử trận và 1360 bị thương; Thái Lan với 351 quân
nhân tử trận và 1200 bị thương;Tân Tây Lan với 55 quân nhân tử trận và 212 bị
thương. Trong khối cộng sản tham chiến tại Việt Nam có Trung Cộng, Liên Xô, Bắc
Hàn, các nước cộng sản tại Đông Âu với số tử trận và thương vong tuy không được
công bố chính thức nhưng cũng đáng kể, nhất là Trung Quốc và Liên Xô.**
Hoa Kỳ là nước trực tiếp tham
chiến cùng với quân đội và dân chúng miền Nam Việt Nam và là quốc gia bị thiệt
hại về nhân mạng cao nhất ngoài Việt Nam. Không chỉ với 58.200 quân nhân tử
trận mà nó liên hệ đến gần 5 triệu lượt thanh niên trong lứa tuổi 20 - 40 đã
trực tiếp chiến đấu trong tổng số hơn 6 triệu người Mỹ tham gia chung vào cuộc
chiến ngăn chặn chế độ cộng sản bành trướng tại Miền Nam Việt Nam. Như vậy có
thể nói rằng từ 5 đến 6 triệu gia đình người Mỹ đã trực tiếp liên hệ đến Việt
Nam, một đất nước trước đó thật xa lạ đối với đa số người dân Mỹ bình thường.
Sau 37 năm tính từ năm 1975, con
số khoảng 6 triệu gia đình người Mỹ có liên hệ trực tiếp (có người thân chiến
đấu, hy sinh và bị thương vong hay có liên hệ gia đình vợ chồng) và có nhiều kỷ
niệm với Việt Nam. Bên cạnh đó là khoảng hơn 1.5 triệu người Việt và gia đình
họ đã phải rời khỏi Việt Nam đến lánh nạn và lập nghiệp tại quốc gia này sinh
sản thêm. Nếu chỉ nhân 2 hay 3 (số 7 hay 8 triệu người này lập gia đình và sinh
sản thêm trong thời gian 37 năm) thì đến hôm nay con số người tại Mỹ có mối
liên hệ tình thân và tình thâm “ruột thịt” trực tiếp với Việt Nam có thể lên
đến con số khoảng từ 10 đến 15 triệu người, trong tổng số khoảng 300 triệu
người dân Hoa Kỳ.
Hiện nay, với khoảng 15 triệu dân
Mỹ chính thống và người tỵ nạn Việt Nam tại Mỹ cùng với con cháu Mỹ-Việt của họ
sẵn có mối tình thân, tình thâm “ruột thịt” với 85 triệu dân Việt của nước Việt
Nam, có thể kết luận rằng: Việt Nam và Hoa Kỳ cùng là “người thân”! Đây là một
mối thâm tình “ruột thịt” đặc biệt có được giữa hai nước Việt Nam và Hoa
Kỳ.Trong số những quân nhân và chuyên viên trẻ Hoa Kỳ đã từng sát cánh chiến
đấu với quân đội Miền Nam Việt Nam cách đây hơn 30 năm, nhiều vị đang nắm giữ
các chức vụ và công tác quan trọng trong quân đội và các bang ngành dân sự. Họ
hầu hết có cảm tình đặc biệt với dân chúng Miền Nam Việt Nam (Việt Nam Cộng
Hòa).
Cho đến hôm nay, sự đùm bọc trong
tình thâm “ruột thịt” giữa Hoa Kỳ và Việt Nam chỉ giới hạn trong việc hỗ trợ
tài chánh có tính cách cá nhân vì bức tường ý thức hệ ngoại lai “cộng sản” do
chính chế độ cộng sản hiện nay tại Việt Nam dựng ra.
Do đó chỉ có một con đường duy
nhất là chế độ chính trị hiện nay tại Việt Nam phải nhanh chóng được thay đồi
từ một chế độ cộng sản chuyên quyền độc tài đảng trị sang một chế độ thật sự tự
do dân chủ, đa nguyên đa đảng, trong đó mọi đảng phái chính trị, mọi người dân
đều được đối xử bình đẳng không phân biệt quá khứ hay chính kiến. Khi đó guồng
máy điều hành quốc gia mới đuợc chính trực, quốc nạn bè phái lộng quyền, kiêu
binh bất trị của đảng viên đảng cộng sản Việt Nam hiện nay mới bị tiêu diệt tận
gốc.**** Có như vậy thì mối tình thân và thâm tình “ruột thịt” giữa người Việt
Nam trong và ngoài nước, tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác trên thế giới, mới được
phát huy và tận dụng. Và khi đó đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta mới
nhanh chóng được hoàn toàn tự do, kinh tế được phát triển thực sự và nhanh
chóng, và ý đồ xâm lược của kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam, Trung
Cộng, mới bị triệt tiêu.
Ngày 04 tháng 02 năm 2012
No comments:
Post a Comment