Chương trình phóng sự truyền hình 60 phút Úc: Fukushima bây giờ gây nhiễm xạ cho mọi người, sẽ tác
động đến toàn nhân loại
http://www.youtube.com/watch?v=BAzrWJXBIM0&feature=related
(đã bị rút khỏi nhưng chúng tôi đã phụ đề tiếng việt và lưu trên youtube dưới đây)
http://www.youtube.com/watch?v=JcHDF_pCDRg&feature=youtu.be
(đã bị rút khỏi nhưng chúng tôi đã phụ đề tiếng việt và lưu trên youtube dưới đây)
http://www.youtube.com/watch?v=JcHDF_pCDRg&feature=youtu.be
LỜI ĐỐI THOẠI
TRONG CHƯƠNG TRÌNH PHÓNG SỰ 60 PHÚT ĐƯỢC DỊCH SANG TIẾNG VIỆT:
Nguyễn
Thế Hùng, Nguyễn Xuân Diện, Nguyễn Hùng dịch
(0.00-0.40)
When
Japan was rocked by a massive earthquake and tsunami back in March 2011, we
told ourselves that the worst was behind us. Tens of thousands were dead, the
community shattered, whole community was erased. Surely the Japanese has
suffered enough. But all these weeks later, the crisis is far from over. The
crippled Fukushima nuclear plant is still leaking. Judging from the experiences
in Chernobyl, recovery won’t be measured in years, more likely in centuries.
Khi
Nhật Bản bị rung chuyển bởi một trận động
đất lớn và cơn sóng thần vào tháng 3 năm 2011,
chúng tôi nói với bản thân rằng điều tồi tệ nhất đã ở lại phía sau chúng tôi.
Hàng chục ngàn người đã chết, cộng đồng tan vỡ, cả cộng đồng đã bị xoá sổ hoàn toàn. Chắc chắn
Nhật Bản đã phải chịu đủ khổ nạn. Nhưng những tuần lễ sau đó, cuộc khủng
hoảng này vẩn chưa chấm dứt. Nhà máy điện hạt nhân Fukushima bị hư hại hoàn
toàn vẫn tiếp tục rò rỉ. Đánh giá từ
các kinh nghiệm tại Chernobyl, công tác phục hồi sẽ không
được tính bằng nhiều năm, nhưng nhiều khả năng sẽ kéo dài trong nhiều thế kỷ.
(0.40-0.55)
On
Japan eastern shores, where thousands of people once lives there, now only neat
piles of rubble and eerie silence to mark the tsunami that was so devastated to
a nation.
(0.55-1.02)
But
it’s not long before that silence is shattered signaling there is another
disaster looming.
(0,40-0,55)
Các bờ biển phía đông Nhật Bản, nơi hàng ngàn người dân đã sinh sống trước đó, bây giờ chỉ còn là những đống đổ nát được thu dọn gọn gàng và sự im lặng kỳ lạ đánh dấu trận sóng thần đã tàn phá khủng khiếp một quốc gia.
(0,55-1,02)
Tuy nhiên, không lâu trước khi sự im lặng đó bị tan vỡ, báo hiệu một thảm họa khác sắp sửa ập đến.
Các bờ biển phía đông Nhật Bản, nơi hàng ngàn người dân đã sinh sống trước đó, bây giờ chỉ còn là những đống đổ nát được thu dọn gọn gàng và sự im lặng kỳ lạ đánh dấu trận sóng thần đã tàn phá khủng khiếp một quốc gia.
(0,55-1,02)
Tuy nhiên, không lâu trước khi sự im lặng đó bị tan vỡ, báo hiệu một thảm họa khác sắp sửa ập đến.
(1.03-
0)
What
is it saying, Krank?
(1.05-
0)
FRANK
JACKSON: It’s nothing like it’s said before.
(1.06-
1.20 )
LIZ HAYES: We ‘re heading for ground zero of
Japan’s nuclear crisis, the melt down of Fukushima power plant. It’s 20 km
away, but already we’re picking up its deadly fallout.
(1.22-
1.25 )
FRANK
JACKSON: The radiation is building, the further we go in so it’s going to be
very dangerous to go in.
(1,03)
Việc này đang nói lên điều gì vậy, Frank?
(1,05)
FRANK JACKSON: Đó là không có gì giống như nó đã nói.
(1.06-1.20)
LIZ HAYES: Chúng tôi đi về hướng vùng đất tâm điểm (zero) của cuộc khủng hoảng hạt nhân của Nhật Bản, nơi (lò hạt nhân)nhà máy điện Fukushima bị nóng tan chảy. Mới chỉ cách nơi đó 20 km, nhưng chúng tôi đã ghi nhận được bụi phóng xạ chết người của nhà máy.
(1.22-1,25)
FRANK JACKSON: Càng đến gần, mức độ bức xạ càng tăng lên, do đó sẽ rất nguy hiểm để đi tới thêm.
Việc này đang nói lên điều gì vậy, Frank?
(1,05)
FRANK JACKSON: Đó là không có gì giống như nó đã nói.
(1.06-1.20)
LIZ HAYES: Chúng tôi đi về hướng vùng đất tâm điểm (zero) của cuộc khủng hoảng hạt nhân của Nhật Bản, nơi (lò hạt nhân)nhà máy điện Fukushima bị nóng tan chảy. Mới chỉ cách nơi đó 20 km, nhưng chúng tôi đã ghi nhận được bụi phóng xạ chết người của nhà máy.
(1.22-1,25)
FRANK JACKSON: Càng đến gần, mức độ bức xạ càng tăng lên, do đó sẽ rất nguy hiểm để đi tới thêm.
(1.26-1.27)
LIZ
HAYES: So we actually have to stop here.
FRANK:
Yep. I’m not willing to take you in any further.
(1.31-1.41)
LIZ
HAYES: Radiation expert Frank Jackson and his Geiger Counters tell us we’re
already come too far. Even the protective gear is not enough?
(1,26-1,27)
LIZ HAYES: Như vậy, chúng ta thực sự phải dừng lại ở đây.
FRANK: Đúng đó. Tôi không sẵn sàng để đưa bạn đi thêm nữa.
(1,31-1,41)
LIZ HAYES: Chuyên gia bức xạ Frank Jackson và các máy đo bức xạ Geiger của ông cho chúng tôi biết chúng tôi đã đi quá xa. Ngay cả những đồ bảo hộ cũng không đủ bảo vệ chúng tôi?
LIZ HAYES: Như vậy, chúng ta thực sự phải dừng lại ở đây.
FRANK: Đúng đó. Tôi không sẵn sàng để đưa bạn đi thêm nữa.
(1,31-1,41)
LIZ HAYES: Chuyên gia bức xạ Frank Jackson và các máy đo bức xạ Geiger của ông cho chúng tôi biết chúng tôi đã đi quá xa. Ngay cả những đồ bảo hộ cũng không đủ bảo vệ chúng tôi?
(1.42-1.57
)
FRED:
Gamma is the strongest form of radiation. It goes through most things apart
from lead.
LIZ:
Okay it’s the radiation we need to avoid?
FRED:
Yes.
(1.58-2.
05)
LIZ
HAYES: Fukushima is a major supplier of Japan’s power once looked like this.
(1,42-1,57)
FRED: Tia Gamma là tia mạnh nhất của bức xạ hạt nhân. Nó đi xuyên qua hầu hết mọi thứ ngoài trừ chì.
LIZ: Được rồi, đó là bức xạ chúng ta cần phải tránh?
FRED: Đúng.
(1,58-2 05)
LIZ HAYES: Fukushima là nhà máy cung cấp điện chính của Nhật Bản, trước kia nó đã từng trông như thế này.
FRED: Tia Gamma là tia mạnh nhất của bức xạ hạt nhân. Nó đi xuyên qua hầu hết mọi thứ ngoài trừ chì.
LIZ: Được rồi, đó là bức xạ chúng ta cần phải tránh?
FRED: Đúng.
(1,58-2 05)
LIZ HAYES: Fukushima là nhà máy cung cấp điện chính của Nhật Bản, trước kia nó đã từng trông như thế này.
(2.06-2.30
)
LIZ:
These shocking new images show the moment the tsunami smashed into the plant
triggering a series of fires and explosions. Just 200kilometers from Tokyo
three of the six nuclear reactors (2.23)
at
Fukushima are now in meltdown and deadly radiation has already leaked into the
sea (2.30) and air.
(2.31-2.46)
MICHIO:
They say the reactor is stable. Yes it’s true. Stable like you are hanging
(2.37) on the edge of a cliff, hanging by your fingernails and that one by one
your fingernails start (2.41) to crack. That’s stability. In other words it’s a
race against time.
(2,06-2,30)
LIZ HAYES: Những hình ảnh mới gây sốc cho thấy thời điểm sóng thần ập vào nhà máy gây ra một loạt các vụ cháy và nổ. Chỉ 200kilometers từ Tokyo ba trong số sáu lò phản ứng hạt nhân (2,23) tại Fukushima bị nóng chảy và bức xạ chết người đã bị rò rỉ ra biển (2,30) và không khí.
(2,31-2,46)
MICHO: Họ nói rằng lò phản ứng ổn định. Đúng đó là sự thật. Ổn định như bạn đang bám (2.37) vào triền của một vách đá, treo bằng những móng tay của bạn và từng ngón tay một bắt đầu (2.41) vuột ra. Đó gọi là ổn định. Nói cách khác, đó là một cuộc đua chống lại thời gian.
LIZ HAYES: Những hình ảnh mới gây sốc cho thấy thời điểm sóng thần ập vào nhà máy gây ra một loạt các vụ cháy và nổ. Chỉ 200kilometers từ Tokyo ba trong số sáu lò phản ứng hạt nhân (2,23) tại Fukushima bị nóng chảy và bức xạ chết người đã bị rò rỉ ra biển (2,30) và không khí.
(2,31-2,46)
MICHO: Họ nói rằng lò phản ứng ổn định. Đúng đó là sự thật. Ổn định như bạn đang bám (2.37) vào triền của một vách đá, treo bằng những móng tay của bạn và từng ngón tay một bắt đầu (2.41) vuột ra. Đó gọi là ổn định. Nói cách khác, đó là một cuộc đua chống lại thời gian.
(2.47-
2.53)
LIZ
HAYES: If you thought nuclear disaster had been averted in Japan, then meet
physicist (2.53) Michio Kaku.
(2.54-3.0)
MICHIO:
If you’ve been exposed because you’re an atomic worker, even after you’re
(2.59) long dead and buried your gravesite will be radioactive. Your great
grandkids can come with Geiger Counters and see that granddaddy still has
radiation at his gravesite.
(2.47-2.53)
LIZ HAYES: Nếu bạn nghĩ rằng thảm họa hạt nhân ở Nhật Bản đã được giải quyết, thì hãy gặp vật lý gia (2.53) Michio Kaku.
(2,54-3,0)
MICHIO: Nếu bạn đã bị tiếp xúc với bức xạ vì bạn là một công nhân nguyên tử, ngay cả sau khi bạn (2.59) đã chết từ lâu, mộ của bạn sẽ tiếp tục phát ra bức xạ. Cháu chắc của bạn đến thăm mộ bạn với máy đo bức xạ Geiger và thấy rằng ông nội mình vẫn còn phát ra bức xạ ở mộ của ông.
LIZ HAYES: Nếu bạn nghĩ rằng thảm họa hạt nhân ở Nhật Bản đã được giải quyết, thì hãy gặp vật lý gia (2.53) Michio Kaku.
(2,54-3,0)
MICHIO: Nếu bạn đã bị tiếp xúc với bức xạ vì bạn là một công nhân nguyên tử, ngay cả sau khi bạn (2.59) đã chết từ lâu, mộ của bạn sẽ tiếp tục phát ra bức xạ. Cháu chắc của bạn đến thăm mộ bạn với máy đo bức xạ Geiger và thấy rằng ông nội mình vẫn còn phát ra bức xạ ở mộ của ông.
(3.10-)
LIZ
HAYES: Are you serious?
(3.12-)
MICHIO:
I’m serious.
(3.10)
LIZ HAYES: Ông có chắc chắn không?
(3.12)
MICHIO: Tôi chắc chắn.
LIZ HAYES: Ông có chắc chắn không?
(3.12)
MICHIO: Tôi chắc chắn.
(3.14-
3.4)
LIZ
HAYES: The death and destruction, the displacement of so many families has been
(3.20) quite shocking and radioactive contamination just add another layer to
what is already (3.27) an unspeakable tragedy, these were obviously people’s
homes but because the nuclear power plant (3.33) just 20kilometres that way,
any decision to come back, rebuild may well be out of their hands. (3.44) More
than 135 thousand people have been forced to evacuate. (3.60)The streets, in
towns villages are
now
(3.63) mostly deserted. And locals have been told their food and water may have
been contaminated. (3.40) Shall we just test these?
(3.14-3.4)
LIZ HAYES: Sự chết chóc và tàn phá, sự mật mác nơi cư trú của quá nhiều gia đình đã là (3.20) điều chấn động, và ô nhiễm phóng xạ chỉ cộng thêm (3.27) vào một thảm kịch không thể kể xiêt được, rỏ ràng đây là những nơi cư trú của người dân nhưng vì nhà máy điện hạt nhân ( 3.33) 20kilometres về phía hướng đó, bất kỳ quyết định việc trở lại, xây dựng lại cũng có thể đã tuột khỏi bàn tay của họ. (3,44) Hơn 135 nghìn người đã buộc phải sơ tán. (3,60) Các đường phố, ở các thị trấn làng mạc hiện nay (3.63) hầu như bị bỏ hoang. Và người dân địa phương đã được cho biết thực phẩm và nước của họ có thể đã bị nhiễm phóng xạ. (3,40) Chúng ta sẽ kiểm tra những thứ này?
LIZ HAYES: Sự chết chóc và tàn phá, sự mật mác nơi cư trú của quá nhiều gia đình đã là (3.20) điều chấn động, và ô nhiễm phóng xạ chỉ cộng thêm (3.27) vào một thảm kịch không thể kể xiêt được, rỏ ràng đây là những nơi cư trú của người dân nhưng vì nhà máy điện hạt nhân ( 3.33) 20kilometres về phía hướng đó, bất kỳ quyết định việc trở lại, xây dựng lại cũng có thể đã tuột khỏi bàn tay của họ. (3,44) Hơn 135 nghìn người đã buộc phải sơ tán. (3,60) Các đường phố, ở các thị trấn làng mạc hiện nay (3.63) hầu như bị bỏ hoang. Và người dân địa phương đã được cho biết thực phẩm và nước của họ có thể đã bị nhiễm phóng xạ. (3,40) Chúng ta sẽ kiểm tra những thứ này?
(3.41)
FRED:
There’s the same as an X-ray according to this.
(4.04)
LIZ
HAYES: So every time you have a cabbage you have an X-ray.
FRED: Yep
(3.41)
FRED: Theo các số liệu này, nó giống như khi chụp X-quang .
(4.04)
LIZ HAYES: Như vậy, khi ông ăn một bắp cải ông tiếp nhận một lượng bức xạ tương đuơng với một lần chụp X-quang.
FRED: Đúng vậy.
FRED: Theo các số liệu này, nó giống như khi chụp X-quang .
(4.04)
LIZ HAYES: Như vậy, khi ông ăn một bắp cải ông tiếp nhận một lượng bức xạ tương đuơng với một lần chụp X-quang.
FRED: Đúng vậy.
(4.16)
LIZ HAYES: These are Japan’s radiation refugees,
thousands who are now living (4.21) carboard shelters sleeping on the floors of
public buildings with few possessions and (4.27) little privacy and facing a
future that doesn’t seem to offer much more. When you look at (4.34) this I
feel like I’m looking through someone’s window. People have gone to a lot of
effort (4.44) to try make a cardboard box
home.
(4.16)
LIX HAYES: Đây là những người tị nạn bức xạ hạt nhân của Nhật Bản, hàng ngàn người đang sống (4.21) trong các chổ trú ẩn làm bằng các tấm giấy bìa cứng trên sàn của các tòa nhà công cộng với một vài tài sản và (4.27) ít ỏi về riêng tư và phải đối mặt với một tương lai mà có vẻ không có được nhiều hơn nữa. Khi bạn nhìn vào (4.34), tôi cảm thấy như đang nhìn qua cửa sổ nhà của một ai đó. Người dân tại đây đã dồn nhiều nỗ lực (4.44) để cố gắng biến đổi các tấm giấy thùng thành căn nhà ở.
LIX HAYES: Đây là những người tị nạn bức xạ hạt nhân của Nhật Bản, hàng ngàn người đang sống (4.21) trong các chổ trú ẩn làm bằng các tấm giấy bìa cứng trên sàn của các tòa nhà công cộng với một vài tài sản và (4.27) ít ỏi về riêng tư và phải đối mặt với một tương lai mà có vẻ không có được nhiều hơn nữa. Khi bạn nhìn vào (4.34), tôi cảm thấy như đang nhìn qua cửa sổ nhà của một ai đó. Người dân tại đây đã dồn nhiều nỗ lực (4.44) để cố gắng biến đổi các tấm giấy thùng thành căn nhà ở.
(4.47)
CHIA:
Yeah, I’m surprised to see there are photographs, even the windows are drawn
and all the bookshelves built up.
(4.63)
LIZ
HAYES: Many Japanes people, like Chia Matsumoto fears their country will never
fully recover. Do you think you’ll ever be able to take food, water, air you
breathe for granted again?
(4,47)
CHIA: Đúng đó, tôi ngạc nhiên khi thấy có các bức hình, thậm chí cả các cửa sổ được vẽ ra và cả các kệ sách đã được tạo ra.
(4.63)
LIZ HAYES: Nhiều người Nhật Bản, giống như Chia Matsumoto sợ đất nước của họ sẽ không bao giờ hoàn toàn hồi phục. Cô có nghĩ rằng bao giờ cô sẽ có thể trở lại xem thức ăn, nước, không khí bạn hít thở là điệu bình thường tự nhiên không?
CHIA: Đúng đó, tôi ngạc nhiên khi thấy có các bức hình, thậm chí cả các cửa sổ được vẽ ra và cả các kệ sách đã được tạo ra.
(4.63)
LIZ HAYES: Nhiều người Nhật Bản, giống như Chia Matsumoto sợ đất nước của họ sẽ không bao giờ hoàn toàn hồi phục. Cô có nghĩ rằng bao giờ cô sẽ có thể trở lại xem thức ăn, nước, không khí bạn hít thở là điệu bình thường tự nhiên không?
(5.06)
CHIA:
Ah, knowingly no, I don’t think so. I just have to believe that that’s safe to (5.16) to eat or drink. But
somewhere in my mind I’m sure I know and always suspect or always (6.25) doubt
is this, I have to ask myself is this is
okay, or if I do this, is it going to show (5.32) in my health in a few years
time. I already do.
(5.06)
CHIA: ồ, nói một cách có hiểu biết là không, tôi không nghĩ vậy. Tôi chỉ phải tin rằng đó là an toàn (5.16) để ăn hoặc uống. Nhưng ở một nơi nào đó trong tâm trí của tôi, tôi tin chắc tôi biết và luôn luôn nghi vấn hoặc luôn luôn (6.25) nghi ngờ có phải điều này, tôi phải tự hỏi bản thân mình là điều này là được, hoặc nếu tôi làm điều này, nó sẽ ảnh hưởng (5,32) đến sức khỏe của tôi trong một thời gian vài năm sau đó. Tôi đã nghỉ như vậy rồi.
CHIA: ồ, nói một cách có hiểu biết là không, tôi không nghĩ vậy. Tôi chỉ phải tin rằng đó là an toàn (5.16) để ăn hoặc uống. Nhưng ở một nơi nào đó trong tâm trí của tôi, tôi tin chắc tôi biết và luôn luôn nghi vấn hoặc luôn luôn (6.25) nghi ngờ có phải điều này, tôi phải tự hỏi bản thân mình là điều này là được, hoặc nếu tôi làm điều này, nó sẽ ảnh hưởng (5,32) đến sức khỏe của tôi trong một thời gian vài năm sau đó. Tôi đã nghỉ như vậy rồi.
(5.40-5.55)
MICHIO:
These are guinea pigs in some sense. Human Guinea pigs to see exactly how
radiation (5.46) disperses in the environment and exactly how it’s incorporated
into people’s bodies and (5.51) into their children’s bodies and as the years
and decades go by we’ll see an increase in cancer.
(5,40-5,55)
Michio: Đây là những con thú thí nghiệm heo guinea trong một nghĩa nào đó. Những người thí nghiệm Guinea để xem cách thức bức xạ (5,46) phân tán trong môi trường và cách thức nào bức xạ hạt nhân xâm nhập vào cơ thể con người và (5,51) vào cơ thể con cái của họ, và sau nhiều năm và nhiều thập kỷ đi qua chúng ta sẽ thấy sự gia tăng về bệnh ung thư.
Michio: Đây là những con thú thí nghiệm heo guinea trong một nghĩa nào đó. Những người thí nghiệm Guinea để xem cách thức bức xạ (5,46) phân tán trong môi trường và cách thức nào bức xạ hạt nhân xâm nhập vào cơ thể con người và (5,51) vào cơ thể con cái của họ, và sau nhiều năm và nhiều thập kỷ đi qua chúng ta sẽ thấy sự gia tăng về bệnh ung thư.
(5.56)
LIZ HAYES: To get some idea what that means for
the people of Fukushima,(6.06) we’ve journeyed to the only other place on earth
that has seen such a disaster, Chernobyl. This is Pripyat (6.15) once a city
with 35000 people, purpose built for Chernobyl workers and their families now
(6.23) a ghost town.
(5.56)
LIZ HAYES: Để có được một số ý tưởng về những điều đó có nghĩa gì đối với người dân Fukushima, (6,06), chúng tôi đã đi đến nơi khác chỉ có trên trái đất đã kinh qua thảm họa như vậy, Chernobyl. Đây là Pripyat (6.15) một thành phố từng có 35.000 cư dân, được xây dựng chính yếu cho công nhân viên của nhà máy Chernobyl và gia đình họ (6,23), nay là một thị trấn ma.
LIZ HAYES: Để có được một số ý tưởng về những điều đó có nghĩa gì đối với người dân Fukushima, (6,06), chúng tôi đã đi đến nơi khác chỉ có trên trái đất đã kinh qua thảm họa như vậy, Chernobyl. Đây là Pripyat (6.15) một thành phố từng có 35.000 cư dân, được xây dựng chính yếu cho công nhân viên của nhà máy Chernobyl và gia đình họ (6,23), nay là một thị trấn ma.
(6.25)
SERGEI:
In the morning it was 34 hours after the accident, they told people to get
documents (6.31) and get outside of the building.
(6.32)
LIZ
HAYES: But the people of that town thought they were leaving just for three
days?
(6.36)
SERGEI:
For three days, yeah.
(6.38)
LIZHAYES:
So they left everything?
(6.25)
SERGEI: Vào buổi sáng, 34 giờ sau khi xảy ra tai nạn, họ nói với mọi người hãy thu gom tài liệu (6,31) và rời khỏi tòa nhà.
(6.32)
LIZ HAYES: Nhưng người dân của thành phố đó nghĩ rằng họ chỉ rời khỏi nhà trong thời gian ba ngày thôi?
(6.36)
SERGEI: Trong ba ngày, đúng rồi.
(6.38)
LIZ HAYES: Do đó, họ đã bỏ lại tất cả mọi thứ?
SERGEI: Vào buổi sáng, 34 giờ sau khi xảy ra tai nạn, họ nói với mọi người hãy thu gom tài liệu (6,31) và rời khỏi tòa nhà.
(6.32)
LIZ HAYES: Nhưng người dân của thành phố đó nghĩ rằng họ chỉ rời khỏi nhà trong thời gian ba ngày thôi?
(6.36)
SERGEI: Trong ba ngày, đúng rồi.
(6.38)
LIZ HAYES: Do đó, họ đã bỏ lại tất cả mọi thứ?
(6.39)
SERGEI:
Ah, basically yes.
LIZ
HAYES: No one will ever go back there, will they?
SERGEI:
That’s for sure.
(6.42)
LIZ
HAYES: In 1986, the Chernobyl nuclear reactor in the former Soviet country of
Ukraine (6.51) exploded, Sergei Ivanchuk was 16.
(6.39)
SERGEI: À, về cơ bản là như vậy.
LIZ HAYES: Không ai bao giờ có thể quay trở lại, đúng vậy không?
SERGEI: Điều đó là chắc chắn.
(6,42)
LIZ HAYES: Năm 1986, lò phản ứng hạt nhânChernobyl của Ukraine tại nước Liên Xô củ (6,51) phát nổ, lúc đó ông Sergei Ivanchuk được 16 tuổi.
SERGEI: À, về cơ bản là như vậy.
LIZ HAYES: Không ai bao giờ có thể quay trở lại, đúng vậy không?
SERGEI: Điều đó là chắc chắn.
(6,42)
LIZ HAYES: Năm 1986, lò phản ứng hạt nhânChernobyl của Ukraine tại nước Liên Xô củ (6,51) phát nổ, lúc đó ông Sergei Ivanchuk được 16 tuổi.
(6.56)
SERGEI:
When it happened, no one in this country in the world knew how bad it was,
(7.01) even the director of the power plant, even the people who worked there.
I think the first (7.08) people who realized it was bad were those fire
fighters that you know the first victims that died the first night.
(6.56)
SERGEI: Khi thảm họa xảy ra, không có ai trong đất nước này trên thế giới biết mức độ tệ hại của nó, (7,01) ngay cả giám đốc của nhà máy điện, ngay cả những người làm việc ở đó. Tôi nghĩ rằng (7,08) người đầu tiên nhận ra mức độ tệ hại của nó là những người lính cứu hỏa mà bạn biết đó là những nạn nhân đầu tiên đã chết trong đêm đầu tiên.
SERGEI: Khi thảm họa xảy ra, không có ai trong đất nước này trên thế giới biết mức độ tệ hại của nó, (7,01) ngay cả giám đốc của nhà máy điện, ngay cả những người làm việc ở đó. Tôi nghĩ rằng (7,08) người đầu tiên nhận ra mức độ tệ hại của nó là những người lính cứu hỏa mà bạn biết đó là những nạn nhân đầu tiên đã chết trong đêm đầu tiên.
(7.15)
LIZ
HAYES: Those fire fighters were brought here to this now abandoned hospital.
And down (7.23) in its basement are these discarded contaminated uniforms,
their boots, coats and even a cap. (7.32) You know, what is shocking about this
Sergei, is that 25 years later it’s still incredibly radioactive.
(7.15)
LIZ HAYES: Những người lính cứu hỏa đó đã được đưa đến bệnh viện này mà hiện nay bị bỏ phế. Và bên dưới (7,23) ở tầng hầm của nó là các bộ đồng phục bị ô nhiễm bị bỏ lại, giày, áo khoác và thậm chí cả nón. (7.32) Bạn biết đấy, những gì gây sốc về việc này, Sergei, là 25 năm sau nó vẫn còn chứa phóng xạ cao không tưởng tượng nổi.
LIZ HAYES: Những người lính cứu hỏa đó đã được đưa đến bệnh viện này mà hiện nay bị bỏ phế. Và bên dưới (7,23) ở tầng hầm của nó là các bộ đồng phục bị ô nhiễm bị bỏ lại, giày, áo khoác và thậm chí cả nón. (7.32) Bạn biết đấy, những gì gây sốc về việc này, Sergei, là 25 năm sau nó vẫn còn chứa phóng xạ cao không tưởng tượng nổi.
(7.40)
SERGEI:
Yeah, definitely.
(7.41)
LIZ
HAYES: It is a terrible reminder of the horrors those rescue workers faced
(7.47) of not just a fire but an invisible enemy. I actually don’t feel good
about bring here we should go.
(7.54)
SERGEI:
Yeah, sure.
(7,40)
SERGEI: Đúng rồi, chắc chắn.
(7.41)
LIZ HAYES: Đó là một lời nhắc nhở khủng khiếp của những nỗi kinh hoàng mà những nhân viên cứu hộ đã đối mặt (7,47) không những với lửa mà còn với một kẻ thù vô hình. Tôi thực sự không cảm thấy thoãi mái đến nơi này, chúng ta nên rời khỏi đây.
(7,54)
SERGEI: Dạ, chắc chắn.
SERGEI: Đúng rồi, chắc chắn.
(7.41)
LIZ HAYES: Đó là một lời nhắc nhở khủng khiếp của những nỗi kinh hoàng mà những nhân viên cứu hộ đã đối mặt (7,47) không những với lửa mà còn với một kẻ thù vô hình. Tôi thực sự không cảm thấy thoãi mái đến nơi này, chúng ta nên rời khỏi đây.
(7,54)
SERGEI: Dạ, chắc chắn.
(7.56)
LIZ
HAYES: And when it contaminates a community, this can be the result. At Kievis
radiation hospital (8.10) built specially for Chernobyl victim children born
years after the disaster (8.17) are today battling cancer and other illnesses
believed to be caused by the contamination.
(8.23) How do feel about that? It’s something you didn’t see but affects
you?
(8.34)
GIRL:
It understand it was very terrible, this time it was so bad.
(7.56)
LIZ HAYES: Và khi nó gây ô nhiễm một cộng đồng, đây có thể là một hệ quả của nó. Tại bệnh viện bức xạ Kievis (8,10) được xây dựng đặc biệt cho trẻ em nạn nhân Chernobyl chào đời nhiều năm sau thảm họa (8,17) hiện giờ đang chiến đấu với bệnh ung thư và các bệnh khác được cho là gây ra bởi ô nhiễm phóng xạ.
LIZ HAYES: Và khi nó gây ô nhiễm một cộng đồng, đây có thể là một hệ quả của nó. Tại bệnh viện bức xạ Kievis (8,10) được xây dựng đặc biệt cho trẻ em nạn nhân Chernobyl chào đời nhiều năm sau thảm họa (8,17) hiện giờ đang chiến đấu với bệnh ung thư và các bệnh khác được cho là gây ra bởi ô nhiễm phóng xạ.
(8,23)
Em
cám giác ra sao về điều này? Đó là một cái gì
đó em
không nhìn thấy, nhưng ảnh hưởng đến em?
(8,34)
GIRL: Được hiểu rằng điều đó là rất khủng khiếp, lần này nó rất tệ hại.
(8,34)
GIRL: Được hiểu rằng điều đó là rất khủng khiếp, lần này nó rất tệ hại.
(8.48)
LIZ
HAYES: The containment vessel in Chernobyl’s number four reactor ruptured
during a safety test (8.53) sparking a series of explosions and fires, spewing
a cloud of radiated particles across Europe.
(9.01)
MICHIO:
Helicopters came in boric acid, sands, concrete, with lead shielding to protect
the crews and dumped (9.09) 5000 tons of sand, concrete, boric acid and just
buried the reactor. (9.19) It took years to do this and created a sarcophagus.
(8,48)
LIZ HAYES: Bồn ngăn trong lò phản ứng Chernobyl số bốn nổ vỡ trong lúc kiểm tra an toàn (8,53) làm dấy lên một loạt các vụ nổ và cháy, phun ra một đám mây các hạt bức xạ trên khắp châu Âu.
(9.01)
MICHIO: Máy bay trực thăng đến với axit boric, cát, bê tông, được che chắn với các tấm chì để bảo vệ các phi hành đoàn và đã đổ (9,09) 5.000 tấn cát, bê tông, axit boric và chỉ chôn lấp được lò phản ứng hạt nhân. (9,19) Phải mất nhiều năm để làm xong việc này và đã tạo ra một cái quan tài khổng lồ.
LIZ HAYES: Bồn ngăn trong lò phản ứng Chernobyl số bốn nổ vỡ trong lúc kiểm tra an toàn (8,53) làm dấy lên một loạt các vụ nổ và cháy, phun ra một đám mây các hạt bức xạ trên khắp châu Âu.
(9.01)
MICHIO: Máy bay trực thăng đến với axit boric, cát, bê tông, được che chắn với các tấm chì để bảo vệ các phi hành đoàn và đã đổ (9,09) 5.000 tấn cát, bê tông, axit boric và chỉ chôn lấp được lò phản ứng hạt nhân. (9,19) Phải mất nhiều năm để làm xong việc này và đã tạo ra một cái quan tài khổng lồ.
(9.20)
LIZ
HAYES: Today reactor number 4 is an industrial blight on the Ukraine landscape.
The concrete cover you see (9.28) a mere band aid over a molten core that’s
still hot and some fear is still melting. (9.35) And there are plans to build
yet another sarcophagus as this cover is breaking down. (9.44) The Chernobyl
disaster is still far from over. (9.50)To this day there is a 30 kilometer
exclusion zone surrounding Chernobyl. And visitor must first get government
approval (9.57) to come here because high radiation levels are still being
recorded. (10.04) This device is purely to detect the radiation in the air and
this area is supposed to be very radioactive. (10.12) Now if I put down here,
it becomes very active. Ah, mask on. (10.30) Everyone who comes here must be tested for
contamination because radiation is in the air and in the soil and in the food.
(10.40) How many people are being affected still to this day around Chernobyl?
(9,20)
LIZ HAYES: Hôm nay lò phản ứng số 4 là một chứng tích tệ hại của công nghiệp hạt nhân trên vùng đất Ukraine. Vỏ bê tông mà bạn nhìn thấy (9,28) chỉ là một mảng băng keo phủ quanh qua một lõi đã bị nóng chảy vẫn còn nóng và một số chuyên gia sợ rằng nó vẫn còn đang nóng chảy. (9,35) Và lại có những kế hoạch để xây dựng thêm một quan tài khácvì lớp vỏ hiện thờì đang bị hự hại nặng. (9,44) Thảm họa Chernobyl vẫn còn lâu mới chấm dứt. (9,50) Cho đến ngày nay khu vực 30 km xung quanh nhà máy Chernobyl vẫn còn bị cách ly. Và du khách phải được chính phủ phê duyệt trưóc khi viếng thăm nơi này (9,57) vì mức độ bức xạ cao vẫn đang được ghi nhận. (10.04) Thiết bị này chỉ được dùng để phát hiện các bức xạ trong không khí và khu vực này được coi là bị nhiễm phóng xạ rất cao. (10,12) Bây giờ nếu tôi đặt xuống đây, nó trở nên rất tích cực. A, mặt nạ. (10,30) Tất cả những người đến đây đều phải được kiểm tra mức độ bị nhiễm phóng xạ bởi vì bức xạ hiện hữu trong không khí và trong đất và trong thực phẩm. (10,40) Có bao nhiêu người vẫn còn đang bị ảnh hưởng bởi phóng xạ cho đến ngày nay xung quanh Chernobyl?
LIZ HAYES: Hôm nay lò phản ứng số 4 là một chứng tích tệ hại của công nghiệp hạt nhân trên vùng đất Ukraine. Vỏ bê tông mà bạn nhìn thấy (9,28) chỉ là một mảng băng keo phủ quanh qua một lõi đã bị nóng chảy vẫn còn nóng và một số chuyên gia sợ rằng nó vẫn còn đang nóng chảy. (9,35) Và lại có những kế hoạch để xây dựng thêm một quan tài khácvì lớp vỏ hiện thờì đang bị hự hại nặng. (9,44) Thảm họa Chernobyl vẫn còn lâu mới chấm dứt. (9,50) Cho đến ngày nay khu vực 30 km xung quanh nhà máy Chernobyl vẫn còn bị cách ly. Và du khách phải được chính phủ phê duyệt trưóc khi viếng thăm nơi này (9,57) vì mức độ bức xạ cao vẫn đang được ghi nhận. (10.04) Thiết bị này chỉ được dùng để phát hiện các bức xạ trong không khí và khu vực này được coi là bị nhiễm phóng xạ rất cao. (10,12) Bây giờ nếu tôi đặt xuống đây, nó trở nên rất tích cực. A, mặt nạ. (10,30) Tất cả những người đến đây đều phải được kiểm tra mức độ bị nhiễm phóng xạ bởi vì bức xạ hiện hữu trong không khí và trong đất và trong thực phẩm. (10,40) Có bao nhiêu người vẫn còn đang bị ảnh hưởng bởi phóng xạ cho đến ngày nay xung quanh Chernobyl?
(10.45)
IRYNA
LABUNSKA: I think it’s since 1986 over five million people.
(10.49)
LIZ
HAYES: Scientist Iryna Labunska has been testing food from area affected by
Chernobyl. (10.58) The one thing I feel I know now and that I should know is
where the nuclear reactor is (11.01) anywhere in the world is, it has the
potential to affect me even if I don’t live in that.
(10,45)
IRYNA LABUNSKA: Tôi nghĩ rằng từ 1986 đến nay có trên năm triệu người.
(10,49)
LIZ HAYES: Scientist Iryna Labunska đã từng thử nghiệm thực phẩm từ khu vực bị ảnh hưởng bởi thảm họa Chernobyl. (10,58) Có một điều mà tôi cảm thấy bây giờ tôi biếtđược và rằng tôi nên biết là các lò phản ứng hạt nhân (11.01) dầu cho đặt ở bất cứ nơi nào trên thế giới, nó vẫn có khả năng ảnh hưởng đến tôi ngay cả khi tôi không sống ở nơi đó.
IRYNA LABUNSKA: Tôi nghĩ rằng từ 1986 đến nay có trên năm triệu người.
(10,49)
LIZ HAYES: Scientist Iryna Labunska đã từng thử nghiệm thực phẩm từ khu vực bị ảnh hưởng bởi thảm họa Chernobyl. (10,58) Có một điều mà tôi cảm thấy bây giờ tôi biếtđược và rằng tôi nên biết là các lò phản ứng hạt nhân (11.01) dầu cho đặt ở bất cứ nơi nào trên thế giới, nó vẫn có khả năng ảnh hưởng đến tôi ngay cả khi tôi không sống ở nơi đó.
(11.07)
IRYNA:
Yes, because as you know Chernobyl fallout was over the world. Still now in
England (11.14) we have some pastures which are not used for gazing of animals
because they still have contaminated (11.21) with caesium from Chernobyl.
(11.26)
MICHIO:
All of us have a piece of Chernobyl in our bodies. Realize that we could take
(11.30) Geiger counters, simulation counters and see and actually see that radiation
from Chernobyl has been in corporate in our flesh and tissue.
(11,07)
IRYNA: Vâng, bởi vì như bạn biết bụi phóng xạ từ Chernobyl đã đến mọi nơi trên toàn thế giới. Hiện vẫn còn ở Anh (11.14), chúng tôi có một số đồng cỏ không được cho phép sử dụng để chăn nuôi động vật bởi vì cá cánh đồng này vẫn bị ô nhiễm (11,21) với caesium từ Chernobyl.
(11.26)
MICHIO: Tất cả chúng ta ai ai đều có một mảnh của Chernobyl trong cơ thể của chúng ta. Nhận thức được rằng chúng ta có thể dùng (11,30) máy đo bức xạ Geiger, máy đo bức xạ tương tự và thấy và thực sự thấy rằng bức xạ từ Chernobyl đã ngấm trong xác thịt và các tế bào của chúng ta.
IRYNA: Vâng, bởi vì như bạn biết bụi phóng xạ từ Chernobyl đã đến mọi nơi trên toàn thế giới. Hiện vẫn còn ở Anh (11.14), chúng tôi có một số đồng cỏ không được cho phép sử dụng để chăn nuôi động vật bởi vì cá cánh đồng này vẫn bị ô nhiễm (11,21) với caesium từ Chernobyl.
(11.26)
MICHIO: Tất cả chúng ta ai ai đều có một mảnh của Chernobyl trong cơ thể của chúng ta. Nhận thức được rằng chúng ta có thể dùng (11,30) máy đo bức xạ Geiger, máy đo bức xạ tương tự và thấy và thực sự thấy rằng bức xạ từ Chernobyl đã ngấm trong xác thịt và các tế bào của chúng ta.
(11.37)
LIZ
HAYES: And that will be the same with Fukushima?
(11.39)
MICHIO:
That’s right. In fact the whole world will be exposed to radiation from
Fukushima. (11.43) It means that the radiation went over the Pacific Ocean,
sailed over the United States and now is circulating around the entire earth.
(11.37)
LIZ HAYES: Và điều đó sẽ là như thế với Fukushima?
(11.39)
MICHIO: Đúng vậy. Trong thực tế, cả thế giới sẽ bị tiếp xúc với bức xạ từ Fukushima. (11,43) có nghĩa rằng bức xạ đi qua Thái Bình Dương, đến khắp Hoa Kỳ và bây giờ đang du hành xung quanh toàn bộ trái đất.
LIZ HAYES: Và điều đó sẽ là như thế với Fukushima?
(11.39)
MICHIO: Đúng vậy. Trong thực tế, cả thế giới sẽ bị tiếp xúc với bức xạ từ Fukushima. (11,43) có nghĩa rằng bức xạ đi qua Thái Bình Dương, đến khắp Hoa Kỳ và bây giờ đang du hành xung quanh toàn bộ trái đất.
(11.51)
LIZ
HAYES: So we’re already getting it?
(11.53)
MICHIO:
We are already getting radiation from Fukushima.
(11.56)
(11,51)
LIZ HAYES: Như vậy chúng ta đang nhận được nó?
(11.53)
MICHIO: Chúng ta đã nhận được bức xạ hạt nhân từ Fukushima.
LIZ HAYES: Như vậy chúng ta đang nhận được nó?
(11.53)
MICHIO: Chúng ta đã nhận được bức xạ hạt nhân từ Fukushima.
LIZ
HAYES: Do you fear that Fukushima will become the Chernobyl of Japan, a dead
centre and a place people can never go back to?
(12.05)
CHIA:
I think unfortunately it will become that way and has to be that way, or it has
to be kept that way.
LIZ
HAYES: Bạn có lo sợ rằng Fukushima sẽ trở thành Chernobyl của Nhật Bản, một vùng đất
chết và nơi người dân
không bao giờ có thể quay trở lại?
(12,05)
CHIA: Tôi nghĩ rằng rất tiếc là điều đó sẽ trở thành như vậy và phải là như vậy, hoặc nó có phải được giữ như vậy.
(12,05)
CHIA: Tôi nghĩ rằng rất tiếc là điều đó sẽ trở thành như vậy và phải là như vậy, hoặc nó có phải được giữ như vậy.
(12.15)
LIZ
HAYES: This nuclear disaster brings with it an enemy its victim can’t see or
smell (12.24) yet has the power to take everything from them, a cheap reliable
source could now cost them dearly.
(13.24)
12.15)
LIZ HAYES: Thảm họa hạt nhân này mang theo nó một kẻ thù mà nạn nhân của nó không thể nhìn thấy hoặc ngữi được mùi (12,24) nhưng lại có sức mạnh đoạt tất cả mọi thứ từ họ, một nguồn năng lượng tin cậy giá rẻ bây giờ có thể làm cho họ phải trả cái giá rất đắt.
(13.24)
LIZ HAYES: Thảm họa hạt nhân này mang theo nó một kẻ thù mà nạn nhân của nó không thể nhìn thấy hoặc ngữi được mùi (12,24) nhưng lại có sức mạnh đoạt tất cả mọi thứ từ họ, một nguồn năng lượng tin cậy giá rẻ bây giờ có thể làm cho họ phải trả cái giá rất đắt.
(13.24)
MICHIO:
every nation of the world that has decided to go nuclear has to reassess the
real danger. (13.29) What is going to happen over a 100 year, 500 year time
frame? These things do happen. (12.45) They don’t happen often but when they do
happen they could wipe out the economy of the whole nation, (12.52) so nations
have to democratically decide for themselves, are they willing to take the
risk?
(13.24)
MICHIO: tất cả các quốc gia trên thế giới đã quyết định đi con đường năng lượng hạt nhân phải đánh giá lại các mối nguy hiểm thực sự của hạt nhân. (13,29)Việc gì sẽ xảy ra sau một 100 năm, 500 năm đoạn thời gian? Tai nạn chắc chắn sẽ xảy ra. (12,45) Nó không xảy ra thường xuyên, nhưng khi thảm họa xảy ra, nó có thể làm tàn lụi nền kinh tế của cả nước, (12,52) do đó các quốc gia chính họ phải tự quyết định một cách dân chủ về năng lượng hạt nhân, họ có sẵn sàng chấp nhận rủi ro hạt nhân hay không?
MICHIO: tất cả các quốc gia trên thế giới đã quyết định đi con đường năng lượng hạt nhân phải đánh giá lại các mối nguy hiểm thực sự của hạt nhân. (13,29)Việc gì sẽ xảy ra sau một 100 năm, 500 năm đoạn thời gian? Tai nạn chắc chắn sẽ xảy ra. (12,45) Nó không xảy ra thường xuyên, nhưng khi thảm họa xảy ra, nó có thể làm tàn lụi nền kinh tế của cả nước, (12,52) do đó các quốc gia chính họ phải tự quyết định một cách dân chủ về năng lượng hạt nhân, họ có sẵn sàng chấp nhận rủi ro hạt nhân hay không?
No comments:
Post a Comment