Sunday, December 29, 2013

Những lời nói lừa gạt vô lương tâm của “ngài” đại sứ Nga về điện hạt nhân tại Ninh Thuận!

http://danlambaovn.blogspot.com.au/2013/12/nhung-loi-noi-lua-gat-vo-luong-tam-cua.html#more

http://diendanxahoidansu.wordpress.com/2013/12/30/nhung-loi-noi-lua-gat-vo-luong-tam-cua-ngai-dai-su-nga-ve-dien-hat-nhan-tai-ninh-thuan/#more-6375

Những lời nói lừa gạt vô lương tâm của “ngài” đại sứ Nga về điện hạt nhân tại Ninh Thuận!
 
 
Nguyễn Hùng, Trần Hoài Nam 

Hôm 28 tháng 12 năm 2013 lúc 21:45, Thông Tấn Xã Việt Nam đưa một bản tin nong về dự án điên hạt nhân tại Ninh Thuận với đề tựa: “Nga ủng hộ xây nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận”.

Đi vô chi tiết của bản tin, phóng viên Đức Ánh viết: “Ngài Andrey G. Kovtun nhấn mạnh, phía Nga luôn có chính sách ưu tiên và ủng hộ Việt Nam xây dựng Nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận.”

Ôi thật vinh hạnh cho dân chúng Việt Nam được một “ngài” đại sứ của nước Nga của các chú gấu Bắc Cực nhiễm nặng phóng xạ nguyên tử ưu tiên và ủng hộ (phải trả đủ tiền cộng chi phí hoa hồng cho phía Việt Nam) cho nước cho dân Việt mình món quà quỉ ám hạt nhân vĩ đại cỡ Chernobyl, Fukushima.


Không ưu tiên và ủng hộ sao được với món tiền từ 10 đến 20 tỷ được rót vào hồ bao của nước Nga và không biết còn thêm bao nhiêu tỷ nữa cho mỗi năm phía Việt Nam phải trả cho nguyên liệu và phụ tùng thay thế để chạy những cái lò tạo hạt nhân địa ngục trần gian. Để “lại quả” cho chính phu Nga, đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam sẽ trao cho tập đoàn mafia hạt nhân Rosatom món quà phong bì từ 10 đến 20 tỷ USD, tương đương khoảng từ 200 đến 400 ngàn tỷ đồng tiền bác Hồ.

Ô hô, ô hô! “ngài” đại sứ Nga chỉ ủng hộ thì bằng cái miệng để bán được món hàng hời trị giá vài chục tỷ USD nhưng nhân dân Việt nghèo rớt mồng tơi, ngoài cái đại nạn phải cung phụng cả đời cho 3 triệu sâu-giun, nay phải còng lưng trả thêm món nợ vài chục vạn tỷ đồng tiền cụ Hồ - tương đương vài chục tỷ Đô Mỹ- cho bọn đại gia điện hạt nhân Nga với lãi suất cắt cổ, lãnh về của nợ hạt nhân di họa ngàn đời - khối sắt phóng xạ của lò hạt nhân mà toàn thế giới đang ớn tận xương lạnh tận tủy khi nghe nhắc đến nhà máy điện hạt nhân là vội vàng nhất bộ nhất bái, bái bai (bye bye) loại địa ngục hạt nhân diệt chủng này. Đảng và nhà nước cộng sản Việt tiếp tục vô tư nhảy vào hố đen hạt nhân bất kể những lời can ngăn của nhiều chuyên gia nguyên tử trong ngoài nước. Trong khi vụ nhà máy điện hạt nhân bị nổ tung Fukushima của Nhật càng lúc càng đi vào bế tắc, phóng xạ giết hại hàng loạt sinh mạng tiếp tục rò rỉ phát tán không có cách nào giãi quyết dứt điểm và sẽ tiếp tục kéo dài hằng trăm năm, không nói là hằng ngàn hằng chục ngàn năm. Chi phí thu dọn các thiết bị và những cơ sở bị nhiểm phóng xạ cứ tăng lên đều đều mỗi khi có cuộc họp báo cáo về tình trạng của khu nhà máy hạt nhân bị nổ tại Fukushima: lúc đầu ước tính chỉ vài tỷ USD, nay đã nhảy vọt lên trên 20 tỷ USD (khoảng 400 ngàn tỷ đồng VN) và sẽ không dừng tại ở con số này mà sẽ tăng lên đến hằng trăm tỷ USD.

Không dừng tại đó, “ngài” đại sứ Nga tiếp tục “nổ” thêm về dự án điện hạt nhân tại Ninh Thuận. Ngài láo lếu tuyên bố sẽ tổ chức cuộc tranh tài “Olympic hạt nhân” cho các em bé học sinh các bạn trẻ sinh viên cháu ngoan bác Hồ thi đua. Con em của dân Nga có bị chập điện đâu mà tham gia trò hề khuyến dụ này. Những cháu ngoan nào của bác Hồ chiếm hạng nhất nhì ba về các bộ môn điền kinh, chạy, nhảy, phóng, leo trong khu nhà mồ Chernobyl, bơi lội trong các hồ nước làm nguội thanh nhiên liệu phóng xạ tại Chernobyl, v.v. sẽ được chính phủ Putin/tập đoàn mafia Rosatom tưởng thưởng các huy chương Uranium làm từ các thanh nhiên liệu Uranium hạt nhân phế thải về treo cạnh tượng bác Hồ.

Không dừng “nổ” bậy bạ, “ngài” đại sứ Nga còn trắng trợn chơi trò lót đường (đút lót) với các “ngài” quan sâu bằng những các cuộc đi du hí tại Nga mà “ngài” đại sứ hô hoán là tìm hiểu về kỹ thuật hạt nhân. Đề nghị các đồng chí quan đảng nếu được bao cho đi Nga du hí thì hãy vào khách sạn nhà mồ 5 sao Chernobyl tham quan và nghỉ ngơi tại đó rồi tiện đường thăng luôn lên thiên đường cộng sản gặp và hưởng thụ cùng bác Hồ, bác Mac, bác Lenin, bác Mao, bác Staline, bác Mao, cha con bác Kim.

Còn một điều khủng khiếp hơn nữa là bọn chuyên thủy táng dân chúng Việt mỗi năm khi mùa mưa lũ đến trên khắp nước với hằng trăm cái đập thủy điện dỏm do các công ty Tàu khựa toa rập với bọn lợi ích trong đảng và các đại gia đỏ rút ruột công trình khi xây dựng, đó là Tập đoàn Điện Lực Việt Nam - Vietnam Electricity (EVN). Tập đoàn đầy tai tiếng, nổi tiếng giết dân, nổi tiếng tham nhũng rút ruột, được cha chú lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam giao cho công việc béo bở trông coi dự án điện hạt nhân diệt chủng này, với chỉ cần 10% hoa hồng là cả đảng ăn 10 đời.

Nếu mà đảng cộng sản Việt Nam và các nhóm lợi ích tư bản đỏ cứ ngoan cố cấu kết với tập đoàn mafia Rosatom/Putin tiếp tục tiến hành dự án điện hạt nhân thì thảm họa tai nạn phóng xạ hạt nhân sẽ nhanh chóng xảy ra và cả nước Việt Nam sẽ bị bao trùm bởi phóng xạ tương đương với hằng ngàn trái bom nguyên tử.

Toàn dân Việt Nam cần phải quyết tâm nói không với điện hạt nhân.

Ngày 30/12/2013



________________________________________

Nga ủng hộ xây nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận

Đức Ánh (TTXVN) - lúc : 28/12/13 21:45

Giới thiệu mặt bằng thực hiện dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. (Nguồn: TTXVN)

Chiều 28/12, ngài Andrey G. Kovtun, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Liên bang Nga tại Việt Nam đã làm việc với lãnh đạo tỉnh Ninh Thuận về việc phối hợp hành động song phương trong khuôn khổ thực hiện dự án xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1.

Sau khi nghe Ban Quản lý dự án điện hạt nhân, Ban Quản lý dự án di dân, tái định cư Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận báo cáo tiến độ thực hiện các công việc liên quan đến dự án, ngài Andrey G. Kovtun đánh giá cao những nỗ lực của tỉnh Ninh Thuận trong việc phối hợp và tạo điều kiện để các nhà tư vấn Nga hoàn thành tốt việc khảo sát đo đạc địa hình, địa chất phục vụ công tác quy hoạch, đầu tư dự án.

Ngài Andrey G. Kovtun nhấn mạnh, phía Nga luôn có chính sách ưu tiên và ủng hộ Việt Nam xây dựng Nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận.

Vào tháng 3/2014 tới, Nga sẽ tổ chức cuộc thi Olympic trên mạng Internet để các em học sinh, sinh viên của Việt Nam và Nga cũng như các nước trên thế giới có điều kiện tìm hiểu, thể hiện hiểu biết về những vấn đề liên quan đến điện hạt nhân, qua đó̉ chọn những em có năng lực để đào tạo, phục vụ nhà máy điện hạt nhân trong tương lai.

Theo ngài Andrey G. Kovtun, trong năm 2014, Nga sẽ phối hợp Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức đoàn công tác sang thăm Nhà máy điện hạt nhân ở tỉnh Voronhez của Nga, địa phương kết nghĩa với tỉnh Ninh Thuận, vì thế tỉnh nên tạo điều kiện cho một số cán bộ lãnh đạo cùng đoàn công tác sang thăm, tìm hiểu về điện hạt nhân tại Nga.

Nhân chuyến thăm và làm việc của ngài Đại sứ, ông Đỗ Hữu Nghị, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Ninh Thuận mong muốn ngài Đại sứ cần tác động hơn nữa đến Quốc hội, Chính phủ Liên bang Nga để cùng với Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Ban Quản lý dự án điện hạt nhân Ninh Thuận khẩn trương bước vào thực hiện, đẩy nhanh tiến độ dự án. 

Bên cạnh đó, cần tạo điều kiện hơn nữa hỗ trợ Ninh Thuận đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng một số cơ sở hạ tầng thiết yếu như đường giao thông, trường học, công trình phục vụ an sinh xã hội tại các khu dân cư trong vùng dự án, qua đó để tạo niềm tin với người dân vùng dự án.

Ông Sử Đình Vinh, Trưởng Ban quản lý dự án di dân, tái định cư Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 khẳng định hiện nay, công tác giải phóng mặt bằng, đo đạc lập bản đồ, kiểm kê khu vực vùng lõi nhà máy, khu tái định cư, hệ thống cấp nước, công tác lập dự án chuẩn bị đầu tư… đã hoàn thành.

Trong thời gian tới, Ban quản lý sẽ triển khai công tác bàn giao ranh giới, mốc để thu hồi vị trí xây dựng nhà máy khi được EVN bàn giao tại thực địa.

http://www.vietnamplus.vn/nga-ung-ho-xay-nha-may-dien-hat-nhan-tai-ninh-thuan/237315.vnp
 

Sunday, December 22, 2013

Hải chiến Hoàng Sa 1974 khai hỏa, 2 bên cùng đổ bộ đảo Quang Hòa: Bài 4

http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Hai-chien-Hoang-Sa-1974-khai-hoa-2-ben-cung-do-bo-dao-Quang-Hoa-post135949.gd
Hải chiến Hoàng Sa 1974 khai hỏa, 2 bên cùng đổ bộ đảo Quang Hòa
22/12/13 08:48

(GDVN) - Trung đội biệt hải biệt phái tiếp tục tiến sâu vào bờ khoảng 250m và cắm cờ VNCH ngay trước mặt lính TQ đã dàn hàng ngang cách đó 3 mét.
Tiếp theo bài 3 "Địch đông ta ít, VNCH thay đổi kế hoạch tác chiến tái chiếm Hoàng Sa" trong loạt bài "Hoàng Sa mãi mãi là lãnh thổ của Việt Nam" do Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ gửi tới độc giả báo Điện tử Giáo dục Việt Nam trong dịp 40 năm Trung Quốc thôn tính toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Kế hoạch hành quân tái chiếm đảo Quang Hoà của VNCH: HQ4 và HQ5 đổ bộ toán biệt hải và hải kích vào phía tây nam và nam Quang Hoà, trong khi HQ10 và HQ16 ở trạng thái yểm trợ và sẵn sàng tiêu diệt các tàu đối phương. Mỗi chiến hạm của VNCH ghìm súng vào nhược điểm của một chiếc tàu TQ, khai hoả nếu bị đối phương tiến công và tiêu diệt ngay đợt khai hoả đầu tiên như chỉ thị của Tư lệnh Hải quân VNCH. Cuộc hành quân tái chiếm đảo Quang Hoà dự kiến thực hiện vào sáng sớm ngày 19.1.1974.
Trong ngày 18.1, BTL Hải quân Vùng 1 Duyên hải đã phối hợp chặt chẽ với BTL Quân đoàn 1- Quân khu 1 trong kế hoạch hành quân tái chiếm các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa, đặc biệt nhất là vấn đề hỗ trợ của không quân. Tuy nhiên, do quần đảo này nằm cách Đà Nẵng 170 hải lý, ngoài tầm hướng dẫn của Đài Kiêm báo Paloma (Tiền SHA) nên máy bay phản lực F5 của VNCH không thể hoạt động được. Do vậy Hải quân VNCH  phải chiến đấu đơn phương.

Tương quan lực lượng giữa hai bên: Phía VNCH có 4 chiến hạm, gồm 1 tàu khu trục HQ4, trang bị 2 khẩu 76,21 ly tự động, 2 đại bác 100 ly; 2 tuần dương hạm HQ5 và HQ16 trang bị 1 đại bác 127 ly, 1 đại bác 40 ly đôi, 2 đại bác 40 ly đơn; 1 tàu hộ tống HQ10 trang bị 1 đại bác 76,21 ly, 2 đại bác 40 ly đơn.
Phía TQ có tổng cộng 6 tàu, bao gồm: 2 chiến hạm loại Kronstadt (số 271, 274) trang bị đại bác 100 ly, 2 đại bác 37 ly ; 2 chiến hạm loại T.43 cải biên (389, 396), trang bị đại bác 100 ly, 4 đại bác 37 ly; 2 tàu đánh cá vũ trang đại bác 25 ly và 1 tàu vận tải loại trung.  
Chiến hạm TQ loại Kronstadt số 274 tham chiến tại Hoàng Sa năm 1974.
Sáng sớm ngày 19.1, Tư lệnh Hải quân VNCH khởi hành từ Sài Gòn đến Đà Nẵng để trực tiếp chỉ huy cuộc hành quân tái chiếm Hoàng Sa. Gần 4 giờ chiều hôm đó, phân đoàn 2 gồm HQ4 và HQ5 tiến về phía tây nam đảo Quang Hoà bằng cách vòng ra ngoài đảo Hữu Nhật và Quang Ảnh.
Trong khi đó, phân đoàn 1 gồm HQ10 và HQ16 tiến thẳng về đảo Quang Hoà án ngữ về phía tây bắc. Hạm trưởng, Đại tá Ngạc ra lệnh cho tất cả các chiến hạm chuẩn bị súng đạn, cửa kín nước, vật dụng cứu hoả, cứu thuỷ, chạy tất cả các máy điện và máy bơm.
Bốn chiến hạm TQ chia làm hai nhóm. Nhóm 1 gồm tàu 271 và 274 vòng về phía nam đảo Quang Hoà. Nhóm 2 gồm tàu 389 và 396 di chuyển án ngữ phía tây bắc đảo Quang Hoà để ngăn cản chiến hạm của VNCH. Hai tàu vũ trang 402 và 407 nằm sát bờ phía bắc đảo Quang Hoà. Tàu chuyên chở của TQ nằm phía đông bắc đảo Duy Mộng.
Đại tá Hà Văn Ngạc, sỹ quan VNCH chỉ huy tác chiến giao tranh với TQ giành lại Hoàng Sa
Trung tâm hành quân từ Đà Nẵng chỉ thị cho HQ5 thi hành ngay kế hoạch đã phổ biến đêm trước. Theo đó, trung đội biệt hải gồm 27 người từ HQ4 và 1 trung đội hải kích gồm 22 người từ HQ5 đổ bộ lên bờ nam và tây nam Quang Hoà. Cũng trong  thời gian đó, TQ đổ bộ tăng cường khoảng trên 2 đại đội từ tàu 402 và 407 lên đông bắc đảo Quang Hoà (quân số này đã được lấy từ tàu chuyển vận nằm tại đông nam đảo Duy Mộng). Một đại đội TQ tiến về phía biệt hải VNCH, đại đội còn lại tiến về phía hải kích VNCH.
Trung đội biệt hải biệt phái tiếp tục tiến sâu vào bờ khoảng 250m và cắm cờ VNCH ngay trước mặt lính TQ đã dàn hàng ngang cách đó 3 mét. Đôi bên đứng ghìm súng có lưỡi lê và khẩu chiến với nhau nhưng không hiểu nhau vì bất đồng ngôn ngữ.
Lúc này TQ tăng cường thêm lực lượng có ý định bao vây để bắt sống quân VNCH. Nhận thấy quân TQ đông hơn, với vị thế thuận lợi ở trên cao và được sự yểm trợ của toán quân trú phòng (trong công sự phòng thủ, trang bị súng trung liên và đại liên), trong khi quân VNCH ít hơn và ở thế bất lợi dưới thấp, trống trải nên trung đội biệt hải phải rút xuống bìa san hô.
Thủy quân lục chiến Việt Nam Cộng hòa đổ bộ lên đảo Quang Hòa.
Trên mặt biển phía tây bắc đảo Quang Hoà, tàu TQ số 396 di chuyển cố tình đụng vào phía hữu chiến hạm HQ16, chiến hạm HQ16 di chuyển né tránh và chỉ bị xây xước nhẹ còn tàu TQ bị hư hại nhiều hơn, tuy nhiên tàu TQ vẫn tìm cách đụng lại.
Cùng lúc đó, Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải ra lệnh cho HQ5 tránh khiêu khích, giữ đầu cầu và thiết lập ngay hệ thống phòng thủ. Cố giữ thế cài răng lược trên đất liền và trên mặt biển để loại trừ khả năng không quân TQ bắn phá.
Trung đội hải kích ở bờ phía tây nam đảo Quang Hoà bị lính TQ nổ súng. Ngay phút đầu phía VNCH đã có 2 người chết và 3 bị thương, do vậy trung đội hải kích này phải rút về phía bìa san hô.
Trước tình hình đó, Tư lệnh Hải quân Vùng 1 duyên hải chỉ thị cho các chiến hạm bắn trọng pháo tối đa vào đảo, đồng thời triệt hạ luôn chiếc tàu đối phương; Hải đội trưởng cần phải phản ứng quyết liệt ngay và được toàn quyền sử dụng vũ lực tại vùng hành quân để thi hành nhiệm vụ. Ngay sau đó, Hải đội trưởng đề nghị cho rút quân về tàu trước khi nổ súng để bảo vệ cho lực lượng đang ở thế bất lợi.
Hải chiến Hoàng Sa 1974 khai hỏa.
Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải chỉ thị cho toán đổ bộ phải tiếp tục giữ đầu cầu và cho chiến hạm yểm trợ.Tuy nhiên lệnh này không thi hành được vì lúc đó đang rút quân. Trong thời gian tàu HQ4 thực hiện rút quân, tàu TQ hạ tối hậu thư bằng quang hiệu cho HQ4: “Nếu các anh lao vào chúng tôi, chúng tôi sẽ đáp trả mạnh mẽ hành động khiêu khích quân sự nghiêm trọng của các anh”.
Nhận thấy chỉ thị này sẽ gây bất lợi cho mình vì chiến hạm TQ có thể dùng toàn lực lượng để tấn công chiến hạm VNCH trong khi hoả lực của VNCH bị phân tán vì vừa bắn tàu đối phương vừa bắn lên đảo, nên Bộ chỉ huy hành quân lưu động biển đã khuyến cáo Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải triệt hạ chiến hạm địch trước theo đúng như chỉ thị của Tư lệnh Hải quân VNCH. Khuyến cáo này được Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải đồng ý và chỉ thị cho Hải đội trưởng thi hành.
Khoảng 10 giờ sáng ngày 19.1, phía TQ dàn quân có 2 tàu đánh cá vũ trang 402, 407 tại đông bắc đảo Quang Hoà, 1 tàu chuyên vận tải ở đông nam đảo Duy Mộng, 2 tàu Kronstadt số 274 và 271 tại tây nam đảo Quang Hoà, 2 tàu T.43 số 396 và 389 tại tây bắc đảo Quang Hoà. Các tàu TQ bao một vòng cung từ tây nam lên tây bắc.
Giao tranh ở Hoàng Sa 1974.
Phía VNCH gồm có 4 tàu chiến cũng đã bao một vòng cung phía ngoài chiến hạm TQ từ tây nam lên tây bắc đảo Quang Hoà theo thứ tự HQ5, HQ4, HQ10 và HQ 16. Mỗi chiến hạm Việt Nam Cộng hoà bám sát và ghìm súng sẵn sàng trực xạ vào 1 tàu chiến TQ.
10 giờ 30 phút sáng 19.1, tàu HQ5 bắt đầu khai hoả. Các tàu khác của VNCH ngay sau đó cũng khai hoả đồng loạt. Ngay loạt súng đầu tiên, tàu TQ số 274 bị trúng đạn của HQ5, chiến hạm TQ bốc cháy, bỏ chạy và ủi vào bờ san hô phía tây nam đảo Quang Hoà và coi như bị loại khỏi vòng chiến.
Năm phút sau, HQ4 bị trúng đạn tại đài chỉ huy và vì ổ súng 76,21 ly trước mũi không sử dụng được nên chiến hạm di chuyển về hướng đông đông nam để có thể sử dụng khẩu 76,21ly sau lái tiếp tục bắn vào tàu TQ số 271. Tàu HQ4 bị hư hại và di chuyển về hướng bắc. Trong lúc đó HQ5 vẫn bám sát 2 chiếc 271và 274. Mấy phút sau chiến hạm HQ5 bị trúng đạn 37 ly, cháy phòng vô tuyến nên việc liên lạc bị gián đoạn.
Tại mặt bắc, chiến hạm HQ10, HQ16 bắn thẳng vào tàu 396 và 389. Ngay loạt súng đầu tiên, HQ10 bắn trúng vào phòng lái 396, tàu này bị bốc cháy và mất lái nên quay vòng tròn, bị HQ10 đụng vào phía sau lái. Bị loại khỏi vòng chiến đấu, chiếc 396 chạy về hướng đông bắc và ủi vào bờ san hô phía tây bắc đảo Duy Mộng.
Trong khi đó tàu HQ10 cũng bị hoả lực của 2 chiến hạm TQ bắn trúng đài chỉ huy và hầm máy khiến tàu bốc cháy. HQ10 bị thiệt hại nặng nề. Hạm trưởng Thiếu tá Ngụy Văn Thà tử thương, Hạm phó Nguyễn Thành Trí bị thương nặng và phần lớn nhân viên thương vong.
HQ10 bị mất liên lạc và còn tiến từ từ, sau đó ngưng lại khi đụng vào lái chiến hạm TQ số 396. Nhân viên còn lại đã cố gắng cầm cự đến phút chót, song biết tình trạng tàu không thể cứu vãn, thuỷ thủ đoàn còn lại phải bỏ tàu.
Tàu Trung Quốc số 389 tham gia thôn tính Hoàng Sa năm 1974.
Khi chiếc 396 TQ bỏ chạy, chiếc 389 cũng bị trúng đạn hư hại đáng kể do hoả lực của HQ16 nên vừa cầm cự vừa nhả khói để chạy về hướng nam. Chiếc 271 TQ ở mặt nam chạy lên hợp với chiếc 389 để chống trả HQ5. Khi đến phía tây nam đảo Quang Hoà, HQ5 phải dồn hoả lực bắn vào hai chiến hạm TQ 389 và 271.
Vùng chiến lúc đó mù mịt khói súng và khói do tàu TQ thả. Do súng 27 ly chỉ sử dụng được bằng tay, bắn rất chậm chạp và các ổ súng trước mũi hầu hết không sử dụng được nữa nên HQ5 phải di chuyển hướng đông nam để có thể sử dụng các ổ súng sau lái một cách hữu hiệu.
Khoảng 11 giờ 19.1, vì thiệt hại nhiều và không chịu nổi hoả lực của HQ5 nên 2 tàu TQ đã bỏ chạy về hướng bắc.
Tàu HQ16 trúng đạn tại hầm máy B.1, mất điện, phải lái bằng tay, nước vào làm tàu nghiêng 13 độ, nên vừa chiến đấu vừa di chuyển ra xa vùng chiến để đảm bảo an toàn.
HQ5 phát hiện có 3 tàu TQ vận tốc nhanh có hình dạng rất giống phi tiễn đĩnh Komar – phóng lôi hạm (guided missile frigate) cách 5 hải lý về phía đông bắc và máy bay MiG xuất hiện trên không. Do đó, để chỉnh đốn tình trạng chiến hạm đồng thời di chuyển tránh tên lửa, tàu HQ4 và HQ5 đã di chuyển về hướng bắc tây bắc.
Hải đội trưởng báo cáo có nhiều quân nhân hi sinh và bị thương. Tình trạng súng lớn và rađa của HQ4 và HQ5 đều không sử dụng được. Riêng HQ16 vừa di chuyển vừa cứu thuỷ.
Chiến hạm HQ4 Hải quân Việt Nam Cộng hòa tham gia bảo vệ Hoàng Sa năm 1974.
Hải đội trưởng lệnh cho các chiến hạm di tản khỏi vùng chiến sự vì 2 lý do: khả năng tác chiến của các tàu chiến đã suy giảm; chiến hạm cần rời xa để máy bay VNCH dễ dàng bắn phá chiến hạm TQ (do Vùng 1 Duyên hải thông báo). Khi di chuyển về hướng đông nam, HQ5 đã quan sát thấy 3 chiến hạm TQ từ hướng bắc đông bắc cách 6 đến 7 hải lý đang tiến nhanh về hướng đảo Quang Hoà.
Trưa ngày 19 tháng 1, Hạm đội trưởng lệnh cho HQ4 và HQ5 vào Đà Nẵng. Ngay sau đó, theo ý kiến của Bộ chỉ huy hành quân lưu động biển, Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải đã chỉ thị cho HQ4 và HQ5 phải trở lại tiếp tục chiến đấu, tìm kiếm HQ10 và HQ16, đồng thời bảo vệ đảo còn lại. Trường hợp bị tấn công vào nếu phải rút lui, chiến hạm cố gắng ủi bãi, sẽ có HQ6 và HQ17 đến  tiếp cứu.
Tàu HQ16 bị hư hỏng, nước vào nhiều ở hầm máy B.1, tàu nghiêng 13 độ, vừa di chuyển về Đà Nẵng vừa tự cứu, cách đảo Hoàng Sa (Pattle) 15 hải lý về phía Tây . BTL Hải quân Vùng 1 Duyên hải chỉ thị HQ11 đến vị trí trên với vận tốc nhanh nhất để tiếp cứu HQ16.
Tàu HQ4 hư hại, các súng lớn đều không sử dụng được, hệ thống cứu hoả bị bể nhiều chỗ và không sử dụng được, hầm đạn 76,21 ly bị ngập nước, nếu quay trở lại cũng không làm gì được mà chỉ hư hại thêm.
Nhận thấy TQ đã tăng cường nhiều tàu chiến trong đó có thể có loại phi tiễn đĩnh Komar, nếu tất cả chiến hạm VNCH đồng thời trở lại quần đảo Hoàng Sa, thì quân TQ sẽ hiểu VNCH trở lại để tấn công và phần bất lợi sẽ nghiêng về phía VNCH. Bộ chỉ huy hành quân lưu động biển đã trình bày quan điểm trên với Tư lệnh Hải quân VNCH và ông đã quyết định cho HQ4 và HQ5 trở về Đà Nẵng.

Địch đông ta ít, VNCH thay đổi kế hoạch tác chiến tái chiếm Hoàng Sa: Bài 3

http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Dich-dong-ta-it-VNCH-thay-doi-ke-hoach-tac-chien-tai-chiem-Hoang-Sa-post135948.gd
Địch đông ta ít, VNCH thay đổi kế hoạch tác chiến tái chiếm Hoàng Sa
21/12/13 11:22

(GDVN) - 1 giờ ngày 18/1, Hạm trưởng HQ4 báo cáo việc đổ bộ lên Duy Mộng gặp khó khăn vì khả năng tác chiến của quân TQ mạnh hơn về nhiều mặt.
Tiếp theo bài 2 "Phát hiện TQ chiếm Hoàng Sa, VNCH chuẩn bị chiến đấu đòi lại chủ quyền" trong loạt bài "Hoàng Sa mãi mãi là lãnh thổ của Việt Nam" do Tiến sĩ Trần Công Trục gửi tới độc giả báo Điện tử Giáo dục Việt Nam.

Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính Phủ.
1 giờ ngày 18/1, Hạm trưởng HQ4 báo cáo việc đổ bộ lên Duy Mộng gặp khó khăn vì khả năng tác chiến của quân TQ mạnh hơn về nhiều mặt như hải pháo xa hơn, vận tốc cao hơn, phương tiện đổ bộ dồi dào hơn (6 xuồng đổ bộ, và chiến dĩnh bọc sắt) có hai máy bay yểm trợ. 

Trong khi đó lực lượng VNCH ít, 27 người phân tán tại hai đảo Hữu Nhật và đảo Quang Ảnh . Nếu phải lên Duy Mộng thì số quân càng mỏng, trong khi lực lượng đổ bộ của TQ ước khoảng 40 người chuyên chở trên 2 tàu chuyển vận. 

Nhận được tin báo, Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải ra lệnh HQ4 rút ngay một nửa toán biệt hải trên đảo Hữu Nhật xuống chiến hạm và chờ lệnh. 

Trong đêm 17.1 rạng 18.1, Tham mưu trưởng hành quân lưu động biển điện đàm với Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải, chỉ thị HQ4 và HQ16 không được neo, nếu  phải đón quân nên thả xuồng, xong rồi chạy ra xa, kế đó trở lại; vẫn đổ bộ lên Duy Mộng theo kế hoạch, nếu đối phương phản ứng, sẽ tạm hoãn chờ; rút tất cả 27 biệt hải trên đảo Hữu Nhật nếu không lấy kịp quân địa phương thì cho 1 tiểu đội nhân viên chiến hạm thay thế. 

Tàu HQ4 Trần Khánh Dư.
HQ16 rời Quang Ảnh di chuyển đến phía bắc đảo Duy Mộng, phát hiện thấy tàu TQ đang di chuyển vòng quanh đảo Quang Hoà, có dấu hiệu chuẩn bị đổ bộ. Sau đó phát hiện thêm 1 tàu chuyên vận của TQ dài khoảng 100m trọng tải 200 tấn, di chuyển đến sát đảo Duy Mộng, phía đông nam. 

Đây là loại tàu tiếp tế, có 3 cần trục, nghi ngờ đổ bộ và chuyển quân lên đảo.Trên đảo, quân TQ đã trương cờ mới. Ngoài ra còn thấy 1 tàu hai cột buồm đang di chuyển hướng tây nam xuống đảo Hữu Nhật. HQ16 trở về đảo Hữu Nhật và thả trôi tại đông nam đảo để yểm trợ cho HQ4 thay quân. Tại đây HQ16 thấy tàu đánh cá vũ trang TQ số 407 neo tại 2,5 hải lý đông nam đảo Hữu Nhật 

Sáng sớm ngày 18.1, một trong bốn tàu TQ rời Quang Hoà tiến về phía HQ4. Khi tàu TQ cách 4 hải lý, HQ4 dùng quang hiệu chuyển câu bằng tiếng Anh: “This is our territorial water” (Đây là lãnh hải  của chúng tôi). Chiếm hạm của TQ cũng phát lại câu trên. Nhưng sau đó, khi HQ4 tiến cận, tàu TQ lùi về phía đảo Quang Hoà.

Trong buổi sáng 18.1, khi HQ4 thay thế toán biệt hải trên đảo Hữu Nhật bằng 15 nhân viên cơ hữu của chiến hạm thì tàu của TQ số 407 nhổ neo tiến về phía HQ16, sau đó thả trôi cho tàu tiến cận vào đảo Hữu Nhật. Vì vùng gần bờ cạn nên HQ16 phải cố gắng di chuyển để ngăn cản tàu TQ tiến vào gần đảo.

Phải di chuyển để hỗ trợ HQ16 nên mãi đến gần trưa HQ4 mới hoàn tất công việc thay quân. 27 biệt hải lên chiến hạm, còn 15 nhân viên chiến hạm đổ bộ lên đảo  Hữu Nhật.

Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải chỉ thị cho các chiếm hạm HQ4 và HQ16 bình tĩnh di chuyển an toàn tại vị trí cũ, chú ý sự thả trôi của tàu TQ, toán quân trên đảo phải ngăn cản không cho địch đổ bộ. Các chiếm hạm cố gắng né tránh nếu tàu TQ chặn đầu và cố ý ủi vào chiến hạm.
Tàu HQ5 Trần Bình Trọng của Hải quân VNCH tham gia hải chiến bảo vệ Hoàng Sa.
Trong khi đó HQ5 đến Hoàng Sa chiều 18.1. Bộ chỉ  huy hành quân liên đoàn biển chỉ thị Vùng 1 Duyên hải cho chiến hạm này di chuyển thẳng đến đảo Quang Hoà và Duy Mộng để quan sát phản ứng của TQ. 
Khi di chuyển đến vị trí cách đảo Hữu Nhật 5 hải lý về phía đông nam, hai tàu TQ loại Kronstadt số 271 và 274 từ Quang Hoà tiến tới ngăn cản, HQ5 quay trở lại và thả trôi gần HQ16. Chiến hạm TQ sau đó cũng quay về hướng Quang Hoà. Tất cả 5 tàu TQ thả trôi giữa Quang Hoà và Duy Mộng, mặt phía bắc.

HQ5 thả xuồng đưa một toán hải kích sang tàu HQ16 và nhận toán sỹ quan thuộc Quân đoàn 1- Quân khu 1, nhân viên Mỹ để đưa lên đảo Hoàng Sa (Pattle). Lực lượng này gồm E. Kosh, 3 sỹ quan (Thiếu tá Hồng, 2 Trung uý Hà, Đá) và Hạ sỹ công binh tên là Đệ) thuộc Quân đoàn 1- Quân khu 1 để nghiên cứu thiết lập sân bay tại đảo Hoàng Sa (Pattle).            

HQ10 đến phía đông Hữu Nhật và thả trôi tại đây vào khuya ngày 18.1. Chiều ngày 18.1 Bộ chỉ huy hành quân liên đoàn biển chỉ thị THD.31 tái chiếm thật nhanh 2 đảo Quang Hoà và Duy Mộng bằng mọi giá, dùng biện pháp ôn hoà trước, nếu đối phương kháng cự, dùng vũ khí tiêu diệt, chú ý 2 tàu Kronstadt, đặt mục tiêu trong tầm ngắm, nếu để lâu đối phương tăng cường thêm sẽ khó khăn cho việc tái chiếm. 

Cũng trong buổi chiều 18.1, Tư lệnh Hải quân VNCH chỉ thị cho Tư lệnh Vùng 1 Duyên hải thi hành gấp kế hoạch hành quân tái chiếm đảo Quang Hoà bằng mọi giá. Mỗi chiến hạm có nhiệm vụ ngăn chặn 1 chiến hạm TQ để yểm trợ cho hải kích đổ bộ. Các chiến hạm của VNCH phải luôn ghìm súng vào nhược điểm của chiếm hạm TQ. Nếu phía TQ sử dụng vũ lực thì phải khai hoả đồng loạt để tự vệ và tiêu diệt chiến hạm đối phương ngay loạt đạn đầu tiên.

Tàu HQ5 phát hiện thêm 2 chiến hạm TQ loại T.43 cải biến mang biển số 389 và 396, lớn hơn 2 chiến hạm trước, đến tăng cường tại phía bắc đảo Quang Hoà. HQ5 đáp nhận hiệu lệnh cấp tốc tái chiếm Quang Hoà. HQ16 đến đảo Quang Ảnh tiếp tế cho toán đổ bộ lương thực vũ khí vật dụng.

Tại Đà Nẵng, lúc 21giờ ngày 18.1, HQ11 và 3 VPB (HQ 709, 711, 723) khởi hành tiến về quần đảo Hoàng Sa chở thêm 91 quân địa phương, 15 hải kích, 1 y sĩ, 2 y tá và Chỉ huy phó Sở phòng vệ Duyên  hải. 
Tàu Trung Quốc cắt mũi tàu Việt Nam Cộng hòa bất chấp mọi quy định hàng hải quốc tế.
Trong đêm 18 rạng sáng 19.1, các tàu TQ nhiều lần di chuyển chặn đầu, khiêu khích các tàu chiến VNCH, cố tình gây hấn, bất chấp qui luật hải hành quốc tế. Các chiếm hạm của TQ di chuyển quanh đảo Quang Hoà như có ý định ngăn VNCH tấn công tái chiếm đảo này. Các chiến hạm của VNCH cùng di chuyển bám sát theo tàu TQ. 

Cũng trong đêm 18 rạng sáng 19.1, tại quần đảo Hoàng Sa, phía TQ có 6 chiến hạm (2 Kronstadt (271, 274); 2 T.43 cải tiến (389, 396) 2 tàu đánh cá vũ trang (402, 407) và trên các đảo Quang Hoà, Duy Mộng có thể đã được TQ tăng viện và cố thủ kỹ càng.
Đón đọc Bài 4: Hải chiến Hoàng Sa 1974 khai hỏa, 2 bên cùng đổ bộ đảo Quang Hòa./.

Phát hiện TQ chiếm Hoàng Sa, VNCH chuẩn bị chiến đấu đòi lại chủ quyền: Bài 2

http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Phat-hien-TQ-chiem-Hoang-Sa-VNCH-chuan-bi-chien-dau-doi-lai-chu-quyen-post135947.gd
Phát hiện TQ chiếm Hoàng Sa, VNCH chuẩn bị chiến đấu đòi lại chủ quyền
20/12/13 07:07

(GDVN) - VNCH triển khai kế hoạch hành quân tái chiếm lại nhóm đảo phía tây Hoàng Sa, hai bên bắt đầu dàn thế trận.
Tiếp theo bài 1: "TS Trần Công Trục: TQ 3 lần thừa cơ thôn tính Hoàng Sa" trong loạt bài "Hoàng Sa mãi mãi là lãnh thổ của Việt Nam" do Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ gửi tới độc giả trong dịp 40 năm ngày Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Tiến sĩ Trần Công Trục.
Cũng trong buổi chiều 16.1 sau khi Tổng thống VNCH chỉ thị cho quân đội sẵn sàng chiến đấu bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ ở Hoàng Sa, Tư lệnh Hải quân VNCH tham dự phiên họp khẩn cấp của Hội đồng Nội các. Sau khi Tham mưu phó cuộc hành quân thuyết trình về tình hình quần đảo Hoàng Sa, Thủ tướng VNCH chỉ thị cho Bộ Tổng Tham mưu và BTL Hải quân nghiên cứu kế hoạch tái chiếm các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa đã bị TQ chiếm đóng.
Ngày 17 tháng 1 BTL Hải quân ra Lệnh hành quân số 42 cho BTL Hải quân Vùng 1 Duyên hải thi hành. Phối hợp hành quân, Tư lệnh Sư đoàn 1 Không quân cùng Bộ Tham mưu luôn làm việc bên cạnh BTL Hải quân Vùng 1 Duyên hải, đồng thời BTL Quân đoàn 1- Quân khu 1 cử một Trung tá tham dự. Kế hoạch hành quân chia làm hai giai đoạn:
Giai đoạn 1, tái chiếm các đảo thuộc nhóm Lưỡi Liềm đã bị quân TQ chiếm và cắm cờ. Các đảo này theo thứ tự từ trái sang phải gồm: Quang Ảnh (Money), Hữu Nhật (Robert), Quang Hòa (Duncan), Duy Mộng (Drummond).
Giai đoạn 2, sau khi giai đoạn 1 kết thúc, tuần tiễu và rải quân bảo vệ các đảo còn lại, trên mỗi đảo sẽ có một nửa tiểu đội chốt giữ.
Lực lượng tham dự cuộc hành quân này gồm 4 tàu chiến: 1 tàu trục HQ4 (Trần Khánh Dư), 2 tuần dương hạm là HQ5 (Trần Bình Trọng), HQ16 (Lý Thường Kiệt), 1 tàu hộ tống HQ10 (Nhật Tảo). Binh lực tham gia có 2 toán biệt hải gồm 31 người do Sở phòng vệ Duyên hải tăng cường, 4 toán hải kích gồm 60 người do Liên đội người nhái tăng cường.
Lực lượng yểm trợ và dự bị gồm 1 đại đội quân địa phương và 4 máy bay trực thăng do BTL Quân đoàn 1- Quân khu 1 tăng cường, hai tàu yểm trợ (HQ 800 và HQ 801), 1 tàu hộ tống HQ11 và 3 tuần duyên đĩnh (VPB) HQ 709, 711, 723. Tư lệnh Hải quân VNCH chỉ huy tổng quát chiến dịch. Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải chỉ huy trực tiếp.

Sơ đồ tác chiến của Hải quân VNCH trong hải chiến Hoàng Sa 1974


VNCH triển khai kế hoạch hành quân tái chiếm lại nhóm đảo phía tây Hoàng Sa, hai bên bắt đầu dàn thế trận.
9 giờ tối ngày 16.1, tàu HQ4 chở theo 27 biệt hải thuộc Sở Phòng vệ Duyên hải và một số phóng viên rời Đà Nẵng tiến ra Hoàng Sa. Tàu HQ 800 đến Đà Nẵng ngày 17.1 chở theo 43 nhân viên hải kích của Liên đội người nhái. HQ5 chở theo 43 hải kích cùng HQ10 rời Đà Nẵng lúc nửa đêm 17.1, dự trù chở theo 1 đại đội quân địa phương để tăng cường cho lực lượng đổ bộ, nhưng vì đại đội này chưa sẵn sàng nên không kịp lên tàu mặc dầu đã có lệnh của Bộ Tổng Tham mưu VNCH. HQ11 và 3 VPB (HQ 709-711-723) rời Đà Nẵng lúc 9 giờ tối 18.1 chở theo 91 quân địa phương, 15 hải kích, 1 y sỹ, 12 y tá và chỉ huy phó Sở phòng vệ Duyên hải. 
Gần 8 giờ sáng ngày 17.1, 15 tàu HQ16 tái đổ bộ lên đảo Quang Ảnh do Trung uý Liêm làm trưởng toán mang theo 2 súng M79, 3 súng M16, 1 súng Carbine, 1 máy thông tin PRC 25, 1 poignard, 15 áo phao, xẻng, 1 búa phòng tai, 6 lựu đạn MK.3, 1 súng hoả phảo với 5 viên đạn cùng một số đạn dược, 1 xuồng cao su cỡ 1,5m x 2m. Nhiệm vụ của toán này là triệt hạ 6 mộ bia mà TQ đã nguỵ tạo, chiếm đóng và tổ chức phòng thủ trên đảo.
Sau khi lấy 6 tấm bia đá của TQ về tàu, HQ16 rời đảo Quang Ảnh đến đảo Hữu Nhật lúc 11 giờ và án ngữ tại phía đông nam đảo để hỗ trợ cho 27 biệt hải HQ4 đổ bộ lên từ phía tây đảo Hữu Nhật. 
Trong lúc đó, 2 tàu đánh cá có vũ trang của TQ số 407 và 402 ở lại phía nam đảo Hữu Nhật  và cách bờ gần 1.000 m. Khi thấy HQ4 hạ xuồng đổ bộ, 2 tàu của TQ cũng hạ nhưng vì không kịp nên lại kéo lên. Trên mỗi tàu cá vũ trang này có khoảng 30-35 thuỷ thủ mặc đồng phục xanh. Tàu trang bị súng 25 ly phòng không, một khẩu đã lắp sẵn 1 thùng đạn còn các khẩu khác được bao kín nên không rõ số lượng. Tàu này di chuyển quanh đảo Hữu Nhật đồng thời có 1 tàu ở phía nam đảo.
4 chiến hạm VNCH tham gia bảo vệ, giành lại Hoàng Sa: HQ10, HQ5, HQ16, HQ4
Toán biệt hải VNCH lên đảo Hữu Nhật tìm thấy 1 lá cờ TQ đã cũ và mục, 1 tấm bảng gỗ thông sơn đỏ còn mới (cỡ 1,2m x 0,2 có ghi 17 chữ TQ: “Trung Hoa Nhân dân Cộng hoà quốc thần thánh lãnh thổ, tuyệt bất dung hử xâm phạm” nội dung “yêu sách chủ quyền” đối với quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Cờ và bảng gỗ đã được HQ4 tịch thu. 
Đồng thời toán biệt hải VNCH còn phát hiện thấy các vết tích của VNCH tại đảo Hữu Nhật từ năm 1963 gồm miếu nhỏ khắc ngày 24/11/1963, một tấm bia xây theo kiểu đài chiến sĩ mỗi bề 3 mét, cao hơn mặt đất 0,4m có ghi hàng chữ Việt “Đệ nhất Trung đoàn đổ bộ LĐ/TQLC” và vẽ 1 ngôi sao trắng lồng trong 1 vòng tròn đen, dưới ngôi sao có ghi LĐ.42. Tất cả được đóng khung trong một hình chữ nhật, 2 bể nước bằng xi măng ghi“nước uống” và một hàng chữ đã mờ “Ngô Tổng thống”, 1 tấm bia ghi TĐ.3/TQLC ngày 5.12.1963. Sau đó toán biệt hải đã dựng cờ VNCH trên đảo.
HQ16 phát hiện thấy 2 tàu hộ tống TQ loại Kronstadt mang số 271 và 274 trang bị đại bác 100 ly và 37 ly từ đảo Quang Hoà đang tiến về đảo Hữu Nhật, HQ4 tiếp cận các tàu này, thả xuồng cao su chở nhân viên biết tiếng TQ sang tiếp xúc, nhưng các tàu này chạy máy không cho cập vào. Chiến hạm HQ4 dùng quang hiệu yêu cầu các tàu TQ rời khỏi vùng đó nhưng không kết quả. 
Ngược lại, các tàu TQ còn chạy quanh tàu HQ4 và chặn đầu bất chấp luật hàng hải quốc tế, đồng thời trả lời bằng quang hiệu rằng các đảo này thuộc “chủ quyền” của TQ và yêu cầu chiến hạm HQ4 tránh ra.
Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ16)
HQ16 được lệnh rời đảo Hữu Nhật đến tiếp tế lương thực và phương tiện cho toán đổ bộ trên đảo Quang Ảnh.
Cũng trong ngày 17.1, 43 hải kích thuộc Liên đội người nhái đến Vùng 1 Duyên hải bằng phương tiện HQ800. Tư lệnh Hải quân VNCH chỉ thị cho đại tá Tham mưu trưởng hành quân lưu động biển truyền khẩu lệnh đến Vùng 1 Duyên hải rằng: dùng phương pháp phô trương lực lượng để làm áp lực ôn hoà buộc tàu TQ rời khỏi đảo và ra khỏi hải phận VNCH, tuyệt đối tránh hành động khiêu kích và chỉ khai hoả khi bị tấn công trước; bằng mọi giá, lực lượng hải quân phải chiếm lại các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa, đuổi địch ra khỏi đảo và trương cờ VNCH trên các đảo. Nếu TQ dùng vũ lực, hải quân toàn quyền hành động.
23 giờ ngày 17 tháng 1, Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải chỉ thị cho HQ4 rút 14 biệt hải trên đảo Hữu Nhật để đổ lên đảo Duy Mộng trong đêm trước khi trời sáng, dùng áp lực ôn hoà buộc toán người lạ rời khỏi đảo, tránh mọi hành động khiêu khích, chỉ sử dụng vũ khí khi bị tấn công trước. Hạm trưởng HQ4 lo ngại rằng hiện ở Duy Mộng có tàu đối phương, nếu HQ4 đổ bộ thì sẽ có đụng chạm, trong khi đó số nhân viên của HQ4 lại ít.
Đồng thời, Bộ chỉ huy hành quân lưu động biển chỉ thị: tăng cường ngay 2 chiếm hạm chở theo người nhái đến Hoàng Sa; liên lạc với BTL Quân đoàn 1 để xin quân địa phương nếu chưa có; sáng sớm 18.1 tái chiếm đảo Duy Mộng như phương án đã định; sử dụng biệt hải được rút từ đảo Hữu Nhật, lấy 1 tiểu đội quân địa phương ở đảo Hoàng Sa (Pattle) sang giữ đao Hữu Nhật.
Khoảng nửa đêm 17.1 tuần dương hạm HQ5 chở 43 nhân viên hải kích và cùng tàu hộ tống HQ10 khởi hành từ Đà Nẵng đi Hoàng Sa. Hải đoàn trưởng Hải đoàn 3 là Đại tá Hà Văn Ngạc, được Tư lệnh vùng 1 Duyên hải Chỉ định làm sĩ quan chỉ huy. Trước đó, BTL Hải quân Vùng 1 Duyên hải đã dự tính và cho HQ5 và HQ10 chở theo một đại đội quân địa phương để tăng cường cho lực lượng đổ bộ. Tuy nhiên vì đại đội này chưa sẵn sàng nên không kịp lên tàu.
Đón đọc Bài 3: Địch đông ta ít, VNCH thay đổi kế hoạch tác chiến tái chiếm Hoàng Sa.

3 lần Trung Quốc thừa cơ thôn tính Hoàng Sa :Bài 1

 
http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Ts-Tran-Cong-Truc-3-lan-Trung-Quoc-thua-co-thon-tinh-Hoang-Sa-post135900.gd

3 lần Trung Quốc thừa cơ thôn tính Hoàng Sa

19/12/13 08:11

(GDVN) - Trung Quốc đã manh nha âm mưu thôn tính quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam từ đầu thế kỷ 20.
















Sắp tới thời điểm 40 năm trận hải chiến Hoàng Sa, Trung Quốc (TQ) đánh chiếm trái phép các đảo phía Tây và kết thúc việc thôn tính toàn bộ quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam, Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ có loạt bài ôn lại lịch sử mở mang bờ cõi, thực thi chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của cha ông, trong đó có phần trình bày lại trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974 với những thông tin đầy đủ và chi tiết.
Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam xin trân trọng giới thiệu đến độc giả loạt bài “Hoàng Sa mãi mãi là lãnh thổ của Việt Nam” do Tiến sĩ Trần Công Trục gửi tới, vừa để ôn lại lịch sử mở mang bờ cõi, thực thi chủ quyền của cha ông ở Biển Đông, vừa nhằm  góp phần nhỏ vào công cuộc đấu tranh bảo vệ, gìn giữ và đòi lại chủ quyền hợp pháp của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa hiện nay.
Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ.
Trung Quốc đã manh nha âm mưu thôn tính quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam từ đầu thế kỷ 20, tham vọng bành trướng lãnh thổ vẫn liên tục được TQ ấp ủ trong suốt thời gian dài và chờ những lúc bối cảnh lịch sử thuận lợi đã thừa cơ chiếm đoạt từng phần tiến tới thôn tính toàn bộ quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền hợp pháp của Việt Nam.
Những ngày này cách đây 40 năm đã xảy ra một cuộc hải chiến không cân sức trên Biển Đông, giữa những người con Đất Việt bảo vệ Hoàng Sa với quân TQ. Tuy nhiên, không phải tới năm 1974 TQ mới đánh chiếm Hoàng Sa của Việt Nam mà âm mưu thôn tính quần đảo này đã được Bắc Kinh ấp ủ từ lâu.
TQ đã nhảy vào chiếm đoạt quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam ngay từ đầu năm 1909, mở đầu là sự kiện Đô đốc Lý Chuẩn chỉ huy 3 pháo thuyền ra khu vực quần đảo Hoàng Sa, đổ bộ chớp nhoáng lên đảo Phú Lâm, sau đó phải rút lui vì sự hiện diện của quân đội viễn chinh Pháp với tư cách là lực lượng được Chính quyền Pháp, đại diện  cho nhà nước Việt Nam về đối ngoại, giao nhiệm vụ bảo vệ, quản lý, thực thi chủ quyền tại quần đảo này.

Pháo thuyền Lý Chuẩn âm mưu thôn tính Hoàng Sa năm 1909. (Hình minh họa)
Lợi dụng việc giải giáp quân đội Nhật Bản thua trận trong Thế chiến 2 và Việt Nam vừa giành được độc lập và đang phải đối mặt với bộn bề khó  khăn, năm 1946 chính quyền Trung Hoa Dân quốc (Tưởng Giới Thạch) đưa lực lượng ra chiếm đóng trái phép nhóm đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa và yêu sách “chủ quyền”. Khi Trung Hoa Dân quốc bị đuổi khỏi Hoa lục chạy sang Đài Loan, họ phải rút luôn số quân đang chiếm đóng bất hợp pháp ở phía Đông quần đảo Hoàng Sa. 
Tham vọng bành trướng lãnh thổ của người TQ trên Biển Đông vẫn không dừng lại mà chỉ chực có cơ hội là thừa thế đánh chiếm. Năm 1956, lợi dụng tình hình quân đội Pháp phải rút khỏi Đông Dương theo quy định của Hiệp định Geneva và trong khi chính quyền miền Nam Việt Nam chưa kịp tiếp quản quần đảo Hoàng Sa theo như thỏa thuận của hiệp định này, TQ đã thừa cơ đưa quân ra chiếm đóng bất hợp pháp nhóm đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa.
Cách đây 40 năm, một trận hải chiến không cân sức đã xảy ra trên Biển Đông khi TQ lợi dụng tình thế cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc Việt Nam bước vào giai đoạn nước rút đã thỏa hiệp với Mỹ để Washington khoanh tay đứng nhìn Bắc Kinh đem quân đánh chiếm các đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa của dân tộc Việt Nam lúc đó đang do chính quyền Việt Nam Cộng hòa (VNCH) quản lý.
Tổng thống Mỹ Richard Nixon và Mao Trạch Đông năm 1972 trong chuyến đi lịch sử
Đầu những năm 1970, quan hệ quốc tế liên tục biến động và có nhiều thay đổi. Đặc biệt là chuyến đi lịch sử đến TQ của Tổng thống Mỹ Richard Nixon. Lợi ích của dân tộc Việt Nam đã bị các nước lớn đưa lên bàn đổi chác, trong đó Bắc Kinh đã yêu cầu Washington không can thiệp khi người TQ đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Năm 1974, chính ông Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống VNCH đã nhận định rằng TQ sẽ đánh Trường Sa, thôn tính bằng vũ lực giống như những gì họ đã làm ở Hoàng Sa có sự tiếp tay hoặc làm ngơ của Mỹ.
Vào đầu năm 1974 cuộc kháng chiến chống Mỹ, thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam đang bước vào giai đoạn đoạn cuối. Trước đó, do bị thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Mỹ đã buộc phải ký Hiệp định Pari về Việt Nam (27.1.1973), công nhận độc lập, chủ quyền vào toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam, rút hết quân Mỹ, quân các nước phụ thuộc Mỹ, khỏi miền Nam Việt Nam.
Theo đó, Hạm đội 7 của Mỹ rút khỏi Biển  Đông. Lợi dụng cơ hội đó TQ đã huy động lực lượng thủy, lục, không quân tiến hành đánh chiếm nhóm đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa lúc đó đang do Hải quân VNCH quản lý.   
Những ngày trước trận hải chiến Hoàng Sa 1974, TQ đã bộc lộ rõ tham vọng, dã tâm bành trướng lãnh thổ, thôn tính nốt nhóm đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Ở Hoàng Sa, TQ đã bày binh bố trận, bầu không khí trên Biển Đông đã bắt đầu nồng mùi thuốc súng.
Ngày 11 tháng 1 năm 1974, theo nguồn tin của Thông tấn xã AFP, VNCH đã biết được tin Ngoại trưởng TQ tuyên bố “chủ quyền” đối với quần đảo Hoàng Sa và “tố cáo” VNCH chiếm cứ bất hợp pháp quần đảo này. 
Trước tình hình đó, ngày 16 tháng 1 năm 1974, Bộ trưởng Ngoại giao VNCH Vương Văn Bắc tổ chức họp báo tố cáo TQ huy động tàu chiến xâm phạm lãnh hải quanh các đảo Hữu Nhật, Quang Ảnh, Quang Hoà, Duy Mộng và đổ quân lên các đảo này.   
Hải đăng Việt Nam tại Hoàng Sa thời Pháp thuộc.
Phán đoán được âm mưu của TQ sẽ cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa, nên ngày 14 tháng 1 năm 1974, Bộ chỉ huy hành quân lưu động biển của VNCH ra chỉ thị, lệnh cho một chiến hạm đến quần đảo Hoàng Sa với nhiệm vụ đón viên Trưởng ty khí tượng bị bệnh nặng về Đà Nẵng và quan sát tình hình. Lực lượng cùng đi có 3 sỹ quan và 2 nhân viên thuộc BTL Quân đoàn 1- Quân khu 1 và một nhân viên Toà lãnh sự Mỹ tại Đà Nẵng tên là Cetald E.Kóh công tác trên đảo Hoàng Sa (Pattle) . 
6 giờ tối ngày 14 tháng 1, tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ16) được lệnh rời Đà Nẵng đi Hoàng Sa.
Sáng ngày 15.1.1974, HQ16 đến Hoàng Sa, phát hiện thấy trên đảo Hữu Nhật (Robert) có cắm cờ TQ và gần đó có 1 tàu đánh cá TQ mang tên Nam Ngư, số 402. Đây là loại tàu đánh cá có vũ trang, đài chỉ huy ở giữa, 2 bên gắn ăng-ten cần loại PRC 25, vỏ tàu bằng sắt, mũi hình chữ V, trọng tải 130 tấn, trên boong trước có 3 xuồng cấp cứu nhỏ và 1 xuồng bằng sắt, vũ trang đại bác 25 ly. 
Nhân viên đài khí tượng đảo Hoàng Sa (Pattle) cho biết tàu đánh cá nói trên của TQ đến từ 10.1.1974 và trước đó khoảng 1 tháng cũng có 1 chiếc như vậy, nhưng đã rời khỏi đảo. Tàu HQ16 dùng quang hiệu yêu cầu tàu TQ rời khỏi đảo Hoàng Sa (Pattle), nhưng tàu này không đáp ứng. Tuy nhiên đến buổi chiều tàu TQ nói trên đã tự động rời khỏi đảo. HQ16 trở lại neo đậu tại đông nam đảo Hoàng Sa (Pattle) khoảng 1 hải lý. 
Sáng ngày 16.1, HQ16 rời đảo Hoàng Sa (Pattle) đi quan sát các đảo khác và nhận thấy đảo Quang Hoà đã bị chiếm đóng công khai, trên đảo có chòi canh, vọng gác cao, gắn cờ TQ. Một chiếc tàu vũ trang di chuyển quanh đảo. Tàu này rời Quang Hoà theo hướng tây bắc vào giữa buổi sáng. 
Đảo Duy Mộng không có người nhưng có 2 tàu nhỏ nên HQ16 rời Quang Hoà và Duy Mộng đến đảo Quang Ảnh và nhận thấy trên đảo có cắm cờ TQ. 16 nhân viên tàu HQ16 đổ bộ thám sát, phát hiện trên đảo có 6 nấm mộ, 4 cũ và 2 còn mới, trước mỗi mấn mộ đều có gắn bia đá và chữ TQ. Ngoài  ra còn phát hiện thấy 1 vỏ lựu đạn TQ, 1 chai rượu Suntory còn ít rượu, 1 hầm trống làm bằng thùng đạn. Nhân viên tàu HQ16 đã gắn 2 là cờ VNCH trước khi rời đảo về tàu. 
HQ16 tiếp tục di chuyển về phía đảo Hữu Nhật  phát hiện thấy ở tây nam đảo khoảng 1,5 hải lý có 2 tàu đánh cá vũ trang TQ neo cách nhau khoảng 20m mang số 402 và 407. Từ chiếc 407, quân TQ đang dùng xuồng di chuyển khoảng 1 trung đội sang chiếc 402.
Trụ sở hành chính Việt Nam tại Hoàng Sa trước 1945.
Biết được thực trạng trên, chiều ngày 16, Tư lệnh Hải quân VNCH chỉ thị cho BTL Hải quân Vùng 1 Duyên hải tăng cường ra Hoàng Sa tàu HQ4 chở theo một trung đội biệt hải, đồng thời chỉ thị cho HQ16 sử dụng 1 tiểu đội chiếm đóng đảo Quang Ảnh.
Mặt khác, BTL Hải quân Vùng 1 Duyên hải đã báo cáo tình hình trên về BTL Hải quân và BTL Quân đoàn 1- Quân khu 1 VNCH. 
BTL Hải quân VNCH chỉ thị cho khối hành quân và Bộ chỉ huy hành quân lưu động biển báo cáo sự kiện trên lên Bộ Tổng Tham mưu quân đội VNCH, đồng thời chỉ thị cho Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải trình bày trực tiếp với Tổng thống VNCH nhân khi ông ta đến thăm BTL Hải quân Vùng 1 duyên hải, ngày 16.1.1974. 
Tổng thống VNCH chỉ thị cho Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải, Phó đô đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, chuẩn bị chiến đấu để bảo vệ chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ. Đồng thời, ông cũng chỉ thị cho Thủ tướng Chính phủ VNCH triệu tập Hội đồng Nội các họp bàn về việc TQ xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa. 
Bài 2: Phát hiện TQ chiếm Hoàng Sa, VNCH chuẩn bị chiến đấu đòi lại chủ quyền

Friday, December 20, 2013

Phản đối hai bản án tử hình đối với đồng chí Dương Chí Dũng và Mai Văn Phúc


http://diendanxahoidansu.wordpress.com/2013/12/19/phan-doi-hai-ban-an-tu-hinh-doi-voi-dong-chi-duong-chi-dung-va-mai-van-phuc/#comment-13341
http://danlambaovn.blogspot.com.au/2013/12/phan-oi-hai-ban-tu-hinh-oi-voi-ong-chi.html

Phản đối hai bản án tử hình đối với đồng chí Dương Chí Dũng và Mai Văn Phúc

Nguyễn Hùng
Thật ngỡ ngàng khi cả nước nghe tin toà án nhân dân đưa ra án quyết tử hình hai cán bộ trung kiên của Đảng Cộng Sản Việt Nam sau chỉ bốn ngày xét xử, từ ngày 12/12/2013 đến ngày 16/12/2013.

Đó là đồng chí Bí thư đảng bộ Đảng Cộng Sản tại Vinalines, Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị của Tập Đoàn Quốc Doanh Hàng Hải Việt Nam -Vinalines – đồng chí Dương Chí Dũng, và một đảng viên cao cấp khác của Đảng Cộng Sản Việt Nam là đồng chí Mai Văn Phúc, Tổng Giám Đốc Tổng Công Ty Hàng Hải Việt Nam – Vinalines, Phó Vụ Trưởng Vụ Vận Tải. Bộ Giao Thông Vận Tải Việt Nam của chính phủ nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

1
Đồng chí Dương Chí Dũng mĩm cười cùng với những cán bộ công an đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam
Vinalines được Đảng và Nhà nước Cộng sản Việt Nam thành lập vào năm 1995, là một công ty quốc doanh do Cục Hàng Hải và Bộ Giao Thông Vận Tài Việt Nam quản lý. Đồng chí Dương Chí Dũng, đồng chí Mai Văn Phúc đều  thuộc thành phần con cháu của đảng viên cộng sản trung kiên kỳ cựu (gia đình cách mạng), được Đảng Cộng Sản Việt Nam tín cẩn đào tạo và phân công công tác.

Như đồng chí Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, lãnh đạo cơ quan nhà nước của đảng, đã từng tuyên bố trước đảng rồi sau đó với nhân dân là đồng chí trung thành nhận và hoàn thành nhiệm vụ được Đảng Cộng Sản phân công và luôn luôn thi hành nghiêm tức những Nghị quyết của đảng, không từ chối bất kỳ nhiệm vụ khó khăn nào Đảng giao ,và khi bị khám phá các sai phạm to lớn thì đồng chí Thủ Tướng chỉ phải làm bản kiểm điểm là hết tội và được lãnh đạo Đảng Cộng Sản tin dùng tiếp tục với chức vụ Thủ Tướng lãnh đạo nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Ngay cả đồng chí Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng cũng đã bật khóc nhận lổi trước dân khi đọc bài diễn văn kết thúc Hội nghị Trung Ương 6 vào tháng 10/2012 vì đảng cộng sản Việt Nam đã gây ra biết bao thiệt hại cho đất nước, gây vô vàn khổ đau cho toàn dân, và dân chúng cả nước phải liên tục sống trong nghèo đói lạc hậu suốt hơn nửa thế kỷ từ khi đảng cộng sản cướp chính quyền, tịch thu toàn bộ tài sản của người dân, và dù cho cả nước không còn chiến tranh đã 38 năm mà tự do dân chủ và quyền con người tại Việt Nam như là mò kim trong cát, công an dân phòng trở thành bọn kiêu binh côn đồ công khai tác oai tác quái người dân thấp cổ bé miệng.

Những sai phạm của đồng chí Dương Chí Dũng, của đồng chí Mai Văn Phúc chỉ là những sai phạm do năng lực thâp kém, cộng thêm vào đó là sự non kém trong công tác quản lý kinh tế và kinh doanh của chính đảng cộng sản Việt Nam, của ban bí thư đảng tại Tập đoàn Vinalines, của Bộ Giao Thông Vận Tải, của Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, của Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Toà án Nhân Dân Hà Nội không thể nào chỉ xử qua loa một đại án kinh tế, và trong thời gian chỉ có 4 ngày ngắn ngủi vội vàng đưa ra một bản án thuộc loại bỏ tuối rất khắc nghiệt coi nhẹ sinh mạng của những đảng viên trung kiên của Đảng Cộng Sản Việt Nam, những đảng viên cao cấp một lòng còn đảng còn mình như hai đồng chí Dương Chí Dũng và Mai Văn Phúc.
2
Đồng chí Mai Văn Phúc (ngồi phía sau) cười vui vẽ khi trao đổi với đồng chí Dương Chí Dũng
 
Toà án Nhân Dân Hà Nội đã nhẫn tâm áp đặt một án lệnh lấy đi mạng sống thiêng liêng của hai người con ưu tú của Đảng Cộng Sản Việt Nam, được đảng vun trồng được đặc biệt học tập và thấm nhuần đạo đức Hồ Chí Minh, mà không xét đến nhân thân của hai đồng chì này, là gia đình có nhiều công lao với đảng từ thời Chủ Tịch Hồ Chí Minh ẩn náo bên Tàu với đồng chí Mao Trạch Đông vừa thầy trò vừa anh em đồng chí cộng sản quốc tế.

Nếu hai đồng chí đảng viên cao cấp Dương Chí Dũng và Mai Văn Phúc có sai phạm thì họ cũng chỉ thực hiện theo đúng con đường Bác Hồ chỉ dạy, có gây thiệt hại đi chăng nửa thì cũng chỉ vài tỷ. So với những tác hại do Đảng Cộng Sản gây ra cho đất nước trong hơn nữa thế kỷ qua thì những sai phạm đó chỉ là hạt muối bỏ biển Đông.

Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn tự hào là một đảng văn minh tiến bộ nhất trên thế giói nên không thể khinh xuất đưa ra một án lệnh tử hình cho chính những đảng viên trung thành với đảng – còn đảng còn mình- chỉ vỏn vẹn sau 4 ngày xét xử với một vụ án được cả nước nâng lên hàng “đại án” về kinh tế.

 Đề nghị Bô Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam, vì tình đồng chí còn đảng viên còn đảng, vì truyền thống đối xử nhân đạo chí tình chí lý của Đảng Cộng Sản Việt Nam, và dựa theo tiền lệ đối với các đồng chí cao cấp của đảng như Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, đồng chí Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng, đặc biệt như Hồ Chủ Tịch đã lên kiểm điểm sai phạm sau vụ cải cách ruộng đất năm 1954 đã gây tang thương cho hằng trăm ngàn gia đình và hằng triệu người dân vô tội, hay như đồng chí Tổng Bí Thư Lê Duẩn đã tự kiểm điểm rằng Đảng Cộng Sản Việt Nam ta đã gây chết chóc cho nhiều triệu người dân Việt trên cả nước trong cuộc chiến “ta đánh Mỹ là đánh cho Nga cho Tàu” khi các đồng chí này làm sai; ra lệnh Chi bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam của Tòa Án Nhân Dân Hà Nội thu hồi án lệnh tử hình đối với hai đông chí đảng viên trung kiên – còn mình còn đảng – Dương Chí Dũng và Mai Văn Phúc, cho hai đồng chí này làm bản thành thật  tự kiểm điểm và sau đó đưa đi tái tập huấn chuyên môn quản lý kinh doanh cao cấp định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa để trong tương lai đề bạt vào các chức vụ quan trong của Đảng Cộng Sản Việt Nam cần đến hồng chuyên.

Ngày 19 tháng 12 năm 2013
Nguyễn Hùng

Tham khảo:
Kết thúc phiên tòa xét xử “đại án” Vinalines: Tuyên 2 án tử hình
http://www.anninhthudo.vn/An-ninh-doi-song/Ket-thuc-phien-toa-xet-xu-dai-an-Vinalines-Tuyen-2-an-tu-hinh/529336.antd
Bế mạc hội nghị Trung ương 6, khóa XI,10/2012
https://www.youtube.com/watch?v=b2p-1P6UwgE
Tuyên bố của ông Lê Duẩn, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc,..”
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/liber-s-vn-f-who-n-by-who-2-nt-04292011170009.html
Bác Hồ khóc xin lổi sau thảm họa cải cách ruộng đất 1954 giết hằng trăm ngàn người dân vô tội
https://www.youtube.com/watch?v=QcOWkqAP7wI

Thursday, December 19, 2013

Tình tiết bên trong của tai họa nóng chảy lò phản ứng nguyên tử tại Fukushima Nhật Bản (video)


http://diendanxahoidansu.wordpress.com/2013/12/17/ben-trong-bien-co-nong-chay-nguyen-tu-tai-nhat-ban/

Tình tiết về biến cố nóng chảy nguyên tử tại Nhật Bản (video)

Vào ngày 11/3/2011, cơn động đất nối tiếp với sóng thần đã biến nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi thành trái bom kinh hoàng không chỉ cho nước Nhật mà còn cho hàng trăm triệu dân chúng ở các nước trong vùng.
Dù với trình độ công nghệ cao, đội ngũ kỹ sư và công nhân chuyên nghiệp, tiến trình xây dựng kỹ lưỡng, và nhiều biện pháp phòng ngừa đã được áp dụng, nhưng sức mạnh của thiên nhiên vẫn vượt quá mọi trù liệu của con người.

Sau đây là cuốn phim của đài PBS, Hoa Kỳ ghi lại những giờ phút căng thẳng nhất và các hệ quả tại vùng Fukushima mà nhiều thập kỷ nữa vẫn không dứt.
Đến nay, gần 3 năm sau ngày xảy ra tai họa, chính phủ Nhật vẫn đang bị thế giới chỉ trích vì các rò rỉ phóng xạ vẫn đang chảy ra biển. Một vùng rộng lớn quanh nhà máy phải bị bỏ hoang khoảng nửa thế kỷ trước mặt. Một 
số căn bệnh lạ cũng đã bắt đầu xuất hiện.
Tại Việt Nam, với hiện tượng công trình xây dựng luôn bị rút ruột; với đội ngũ kỹ sư và công nhân chuyên ngành nguyên tử lực gần như ở số không; với sự pha trộn kỹ nghệ tứ phương từ Nhật, Nga, Tàu, Mỹ; và các 
dẫn chứng điều hành vô trách nhiệm đang thấy khắp nơi như qua các vụ xả lũ đập thủy điện, v.v… đâu là những điều rất đáng lo âu cho người Việt Nam trên cả nước và các dân tộc trong vùng Đông Nam Á trước dự án xây 
dựng 2 nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận?

Bên trong biến cố nóng chảy nguyên tử tại Nhật Bản“, một bộ phim tài liệu nói về thảm họa ở nhà máy điện hạt nhân Fukushima đáng để mọi người suy ngâm

Xin mời quí bạn theo dõi.


Ghi chú: Video trên được một độc giả thân quen của Diễn đàn XHDS dịch lời, thuyết minh, gắn phụ đề tiếng Việt và gửi tới.


https://sites.google.com/site/networksavevietnamsnature/5-bai-vo-lien-he/5-1-nang-luong-hat-nhan/t20131218
Bài học nào từ tai họa nguyên tử Fukushima? Phải nói không với điện hạt nhân!

18/12/2013 (Save Vietnam's Nature) - Trận động đất ngày 11/3/2011, nối tiếp với sóng thần đã biến nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi thành trái bom kinh hoàng không chỉ cho nước Nhật mà còn cho hàng trăm triệu dân chúng ở các nước trong vùng.
Dù với trình độ công nghệ cao, đội ngũ kỹ sư và công nhân chuyên nghiệp, tiến trình xây dựng kỹ lưỡng, và nhiều biện pháp phòng ngừa đã được áp dụng, nhưng sức mạnh của thiên nhiên vẫn vượt quá mọi trù liệu của con người.
Đến nay, gần 3 năm sau ngày xảy ra tai họa, chính phủ Nhật vẫn đang bị thế giới chỉ trích vì các rò rỉ phóng xạ vẫn đang chảy ra biển. Một vùng rộng lớn quanh nhà máy phải bị bỏ hoang khoảng nửa thế kỷ trước mặt. Một số căn bệnh lạ cũng đã bắt đầu xuất hiện.
Ông Naoto Kan là cựu thủ tướng Nhật và trong thời gian tại chức, vì quyền lợi Nhật Bản, ông đã khuyến khích xuất khẩu công nghệ hạt nhân sang Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ và Việt Nam. Sau tai họa Fukushima ông mới ngộ ra rằng công nghệ hạt nhân rất nguy hiểm chứ không an toàn chút nào và do đó tỏ lòng hối hận. Đầu tháng 6/2013 vừa qua, ông Kan tuyên bố với báo chí: “Trước ngày 11 tháng 3 đó, tôi chào mời các nước nhập khẩu công nghệ hạt nhân vì tôi cảm thấy các nhà máy điện hạt nhân an toàn. Nhưng sau ngày 11 tháng 3 suy nghĩ của tôi đã đổi chiều 180 độ. Bây giờ tôi rất tiếc đã làm những việc đó”.
Lạ lùng thay, người Nhật hối hận vì đã muốn xuất khẩu một công nghệ có thể dẫn đến tai họa cho quốc gia khách hàng, còn người Việt Nam thì dường như không biết sợ, cứ điềm nhiên xây dựng nhà máy điện hạt nhân. 
Tại Việt Nam, với hiện tượng công trình xây dựng luôn bị rút ruột; với đội ngũ kỹ sư và công nhân chuyên ngành nguyên tử lực gần như ở số không; với sự pha trộn kỹ nghệ tứ phương từ Nhật, Nga, Tàu, Mỹ; và các dẫn chứng điều hành vô trách nhiệm đang thấy khắp nơi như qua các vụ xả lũ đập thủy điện, v.v... đâu là những điều rất đáng lo âu cho người Việt Nam trên cả nước và các dân tộc trong vùng Đông Nam Á trước dự án xây dựng 2 nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận?
Trong khi đó, ngoài một thiểu số người có lòng và nhận biết được sự nguy hiểm của Điện Hạt Nhân, dường như quần chúng vẫn chưa hiểu rõ tầm nguy hiểm của vấn đề, kể cả nhiều nhà trí thức có trình độ và hiểu biết cao, chủ yếu do bị bưng bít thông tin cũng như tuyên truyền một chiều của các tập đoàn công nghệ hạt nhân với sự tiếp tay của các quan chức (học sinh đi dự ngày học tập đạo đức bác Hồ nhưng phải xem phim của Rosatom quảng cáo cho điện hạt nhân an toàn). Dĩ nhiên sống trong nước bị kềm kẹp đủ bề, mới chỉ lên tiếng trái chiều lập tức bị xã hội đen sách nhiễu hay bị nhốt vào tù vì các điều 88, 258... thì những ai muốn quảng bá sự hiểu biết về mối nguy hại của điện hạt nhân và lên tiếng chống đối điện hạt nhân sẽ bị áp bức trù dập, đe dọa (do thế lực của các nhóm lợi ích quá mạnh) mặc dù Việt Nam đã là thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, có nghĩa là phải tôn trọng quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội v.v.
Nhưng sự ra đời của các tổ chức xã hội dân sự mới đây như Mạng lưới blogger Việt Nam, Diễn đàn Xã Hội Dân Sự, Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam ... cho chúng ta nuôi hy vọng và thêm động lực! Liệu có thể có một Mạng lưới hay Diễn đàn "Nói Không Với Điện Hạt Nhân Việt Nam" chăng?
Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu cuốn phim 52 phút "Bên trong biến cố nóng chảy nguyên tử tại Nhật Bản" do một độc giả của Diễn đàn Xã Hội Dân Sự chuyển ngữ và làm phụ đề, một cuốn phim ghi lại những giờ phút căng thẳng nhất và các hệ quả tại vùng Fukushima mà nhiều thập kỷ nữa vẫn không dứt.
Ngoài ra là một phim tài liệu về Thảm Họa Nổ NMĐHN Chernobyl do Hùng Nguyễn làm phụ đề tiếng Việt.
Xem thêm
  1. Văn hoá trách nhiệm: Cách hành xử của chính phủ Nga và Rosatom
  2. Văn hoá trách nhiệm: Cách hành xử của chính phủ Nga và Rosatom - Trường hợp Chernobyl
  3. Trận bão Hải Yến sắp ập vào miền Trung sẽ là một cảnh giác đáng sợ nếu có nhà máy điện hạt nhân trong vùng duyên hải Việt Nam
  4. Tập đoàn điện hạt nhân Nga Rosatom một mình một chợ tự biên tự diễn vở tuồng độc: “Điện hạt nhân Ninh Thuận”
  5. Các chuyên gia hạt nhân chỉ trích nặng nề ban điều hành nhà máy điện hạt nhân Fukushima về những vụ rò rỉ phóng xạ
  6. Các ông Cục Trưởng, Viện Trưởng nói chuyện “tiếu lâm” về dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận!
  7. Tôn trọng ý dân và một hiến pháp không hạt nhân

Saturday, December 14, 2013

Thật khủng khiếp về “Sự tuyệt vời của Điện Hạt Nhân” !

http://tamnhin.net/Canhbao/21881/That-khung-khiep-ve-Su-tuyet-voi-cua-Dien-Hat-Nhan-.html#.Uqwul02Ipjo

Thật khủng khiếp về “Sự tuyệt vời của Điện Hạt Nhân” !


Vấn đề liên quan đến việc xây dựng đề án tăng trưởng xanh. Taamnhin.net trân trọng giới thiệu bài phát biểu về điện hạt nhân của PGS. Koide Hiroaki,Phòng thí nghiệm lò phản ứng nguyên tử;Đại học Kyoto (Nhật Bản)để độc giả và các nhà khoa học tham khảo và đưa ra nhận định vấn đề "Điện hạt nhân" có nguy cơ ảnh hưởng đến phát triển tăng trưởng xanh hay không ?

Trong khi tôi chuẩn bị dẹp 3 chữ “Điện Hạt Nhân” sang một bên để bắt đầu một tuần mới tập trung hơn cho công việc của bản thân, một cơ duyên đã mang tôi đến với buổi nói chuyện của ông Koide Hiroaki, Phó giáo sư tại phòng thí nghiệm lò phản ứng nguyên tử, Đại học Kyoto và cũng là một trong những học giả dẫn dắt phong trào xóa bỏ Điện hạt nhân (ĐHN) tại Nhật.

Xin tóm tắt buổi nói chuyện dài 3 tiếng đồng hồ, trong một hội trường gần 1000 người chật kín này để mọi người tham khảo.

Điện hạt nhân: sự phung phí năng lượng hâm nóng đại dương?

Mở đầu bài phát biểu, giáo sư cho biết điện hạt nhân không khác gì so với nhiệt điện ở chỗ cả hai đều dùng nhiệt sinh ra từ nhiên liệu làm bốc hơi nước để quay tua-bin. Tuy nhiên, điện hạt nhân là nhà máy có hiệu suất nhiệt kém hơn, chỉ là 33% so với 50% của nhiệt điện.

Cụ thể hơn, để vận hành một nhà máy điện hạt nhân công suất 100 vạn kW thì lò hạt nhân phải sinh ra một lượng nhiệt là 300 vạn kW! Tức là 200 vạn kW năng lượng phải bị bỏ phí!!!

Khốn nạn hơn, lượng nhiệt thừa này đang được đưa ra ngoài bằng cách làm nóng nước đưa vào lò, và cứ thế thải thẳng ra biển!

Cách làm này ấn tượng ở chỗ nó có thể nâng nhiệt độ của 70 tấn nước lên 7 độ C trong vòng…1 giây!

Lượng nước này có thể làm nóng bờ biển quanh Nhật Bản, có thể giải thích cái thực tế rằng tốc độ nóng lên của biển Nhật Bản cao hơn mức trung bình của thế giới từ 2-3 lần!

Các sinh vật biển quanh nhà máy ĐHN không thể sống nổi nếu ngâm onshen (hot-spring) mỗi ngày như vậy! Và cũng đừng vội tin rằng C02 là nguyên nhân làm Trái Đất nóng lên!

Điện hạt nhân: một cách đứng lên từ thương đau chiến tranh?

Để sản sinh một lượng nhiệt như vậy, nhà máy DHN như trên phải phân hủy 3 kg uranium/ ngày.

Ba Kilogram có thể rất gọn nhỏ, nhưng hãy nhớ về thảm họa hạt nhân ở Nhật năm 1945: quả bom hạt nhân ở Hiroshima CHỈ chứa 800 gram uranium, và ở Nagasaki CHỈ chứa 1.1 kg plutonium!

Có nghĩa là, xây dựng một nhà máy ĐHN công suất 100 vạn kW có nghĩa là cho nổ 3-4 quả bom nguyên tử ở 2 thành phố kia hằng ngày!

Nhật Bản bắt đầu ĐHN từ năm 1966 và cho đến nay, Nhật Bản đã cho nổ tổng cộng hơn 1 triệu 1 trăm (1,100,000) quả bom nguyên tử như vậy trên khắp đất nước. Con số quá ấn tượng!

Điện hạt nhân: xây nhà không có cầu tiêu?

Rác thải phóng xạ từ các vụ nổ đó được quản lý như thế nào?

Rác có mức phóng xạ cao được chuyển sang Anh và Pháp để làm cô đặc lại thành một khối cứng rồi chở ngược về lại Nhật Bản để …chờ. Nên nhớ chờ đợi rất quan trọng, vì chúng ta không có phương pháp nào để làm mất độc tính của phóng xạ một cách tích cực.

Trong khi chúng ta (Nhật Bản) chưa có cách xử lý thì rác vẫn cứ ùn ùn tuồn ra.
Hiện tượng này tương đương với việc chúng ta sống vui vẻ trong một căn nhà hiện đại mà không có …Toilet!!

Điện hạt nhân: Ai chờ, chờ ai?

Những loại rác có mức phóng xạ cao phải CHỜ có khi cả 1 triệu năm. Những loại rác có mức phóng xạ thấp cần được chôn xuống đất sâu (300-1000m) và chờ ít nhất là 300 năm!
Ai sẽ một lòng trung kiên chờ đợi?

1. Nhà sản xuất = các công ty điện lực?

Cuộc sống có điện và sự phụ thuộc vào điện đã trở thành quá hiển nhiên trong suy nghĩ của chúng ta. Không ai nhớ một sự thật là chỉ mới 61 năm trôi qua kể từ ngày 9 công ty điện lực Nhật Bản được đi vào hoạt động. Có nghĩa là chúng ra đã quên sạch cái ký ức về việc sống không có điện cách đây chỉ vài thập kỷ! Độ dài của 1 công ty là bao so với 300 năm, và ai sẽ đảm bảo là một công ty không bị phá sản trong suốt thời gian đó?

2. Người cho phép = Quốc gia?

Chúng ta tự hào rằng Nhật Bản là một quốc gia hiện đại. Nhưng nên nhớ rằng cái mầm mống của quốc gia đó chỉ mới được tạo nên từ thời Minh Trị, cách đây 144 năm. Ngay cả Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ cũng chỉ có tuổi đời là 236 năm, chả thấm vào đâu so với con số 300 năm của một đống rác “hạng ba”, và 1 triệu năm của một đống rác “chất lượng cao” cả!

3. Vậy thì chỉ có nhân dân chịu trách nhiệm!

Lấy thời gian bán hủy của Cesium137 là 30 năm, tôi (PGS) chắc chắn rằng 30 năm sau, tôi và 1 nửa số người trong căn phòng này sẽ chết hết. Các vị trong chính phủ cũng chết, các giám đốc công ty điện lực cũng chết. Vậy thì ai sẽ chịu trách nhiệm trông giữ khối rác khổng lồ đó? Chúng ta không thể biết được xã hội sẽ thay đổi như thế nào sau 30 năm; chúng ta không đảm bảo được một cái gì cả, nên đừng hùng hổ tuyên bố là nhận trách nhiệm gì cả!

Điện hạt nhân: vì sao chúng ta đồng ý?

Thế nhưng rõ ràng là các nhà máy ĐHN vẫn được xây dựng rất nhiều ở đất nước chúng ta với một tinh thần trách nhiệm vĩ đại. Ngay cả khi không có sự cố thì điều này đã rất phi lý và bất thường!

Chúng ta dễ dàng đồng ý với việc xây dựng nhà máy ĐHN bởi vì chúng ta đã bị lừa bằng câu chuyện thần thoại về tính an toàn gần như tuyệt đối của ĐHN, được tuyên truyền mạnh bạo và rộng khắp qua các phương tiện truyền thông với sự tham gia của những học giả vô lương tâm và vô trách nhiệm.

Chúng ta dễ dàng đồng ý với việc xây dựng nhà máy ĐHN cũng bởi vì chúng ta đã quá vô tư và vô tâm với các biện pháp mà chính phủ đưa ra để giải quyết bài toán an toàn.

Đúng vậy, chúng ta có luật nói rằng cơ sở ĐHN và cơ sở sản xuất nguyên liệu hạt nhân không được xây ở những khu đông dân và những thành phố lớn.

Chính vì thế người dân Tokyo hài lòng vì TEPCO (công ty điện lực Tokyo) đã xây nhà máy ĐHN ở ngoài Tokyo, tức là ở…Fukushima cách Tokyo đến hơn 200 km!

Trong khi các nhà máy nhiệt điện được xây san sát nhau quanh vịnh Tokyo cung cấp điện hiệu quả, các nhà máy ĐHN cần hệ thống dây dẫn hàng trăm, thậm chí hàng ngàn km để dẫn điện từ khắp nơi về “cung phụng” cho Tokyo, với hao tổn đường truyền không hề nhỏ.

Chúng ta chẳng thèm quan tâm, bởi sự sung túc, tiện nghi quan trọng hơn sự thiệt thòi âm thầm của bao kẻ lạ mặt khác. Chúng ta sẵn sàng sống thoải mái trong một ngôi nhà tươm tất, sạch sẽ mặc cho phân ...ứt hôi tanh đổ ra ngoài và đổ lên đầu muôn vạn sinh linh khác.

Hãy đừng chỉ quy tội cho Chính phủ và công ty điện lực Tokyo. Hãy tự xem bản thân chúng ta có liên quan như thế nào trong việc hình thành nên đống rác hạt nhân và tai họa hạt khủng khiếp ngày hôm nay tại Fukushima. Và người bị lừa cũng phải có trách nhiệm một phần vì đã quá ngây thơ để người ta lừa!!!

PGS. Koide Hiroaki,
Phòng thí nghiệm lò phản ứng nguyên tử
Đại học Kyoto (Nhật Bản)
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20131211-thach-thuc-do-bien-doi-khi-hau-va-du-an-dien-hat-nhan-o-viet-nam

 Thứ tư 11 Tháng Mười Hai 2013
Biến đổi khí hậu và dự án Điện hạt nhân ở Việt Nam
 
Nhà máy điện hạt nhân Bataan (Philippines), trị giá khoảng 2 tỷ đô la, khởi công năm 1976. Năm 1986, Philippines quyết định không cho hoạt động vì nhà máy này nằm gần điểm đứt gẫy địa chất và núi lửa đang hoạt động.
Nhà máy điện hạt nhân Bataan (Philippines), trị giá khoảng 2 tỷ đô la, khởi công năm 1976. Năm 1986, Philippines quyết định không cho hoạt động vì nhà máy này nằm gần điểm đứt gẫy địa chất và núi lửa đang hoạt động.
Ảnh : Wikipedia
Trọng Thành
 
Cách đây hơn hai tuần một hội nghị quốc tế quan trọng về biến đổi khí hậu đã diễn ra tại Vacxava. Hội nghị Vacxava cho thấy những thách thức hết sức lớn mà nhân loại phải vượt qua để đạt được một đồng thuận về giảm thiểu và thích nghi với biến đổi khí hậu mang tính pháp lý. Các nguy cơ của biến đổi khí hậu đè nặng trước hết lên các quốc gia phía nam, nhất là các nước nghèo. Giới chuyên gia lo ngại loạt dự án điện hạt nhân tại miền Trung Việt Nam có thể biến thành tai họa, nếu những cơ sở này không kháng cự lại được thiên tai lớn.
Việt Nam là một trong các khu vực trên thế giới có nguy cơ phải chịu nhiều rủi ro nhất trước các biến đổi khí hậu do nhiệt độ trái đất bị hâm nóng. Dải đất hẹp ở miền Trung là một trong các khu vực có khả năng hứng chịu những biến đổi khí hậu bất thường như bão, lũ và thậm chí động đất, sóng thần.
Chính tại đây, chính quyền Việt Nam có kế hoạch xây dựng nhiều nhà máy điện hạt nhân trong thời gian hơn hai thập niên tới, trong đó hai nhà máy hạt nhân đầu tiên tại Ninh Thuận dự kiến sẽ được khởi công vào năm 2014. Dự án hạt nhân tại miền Trung Việt Nam gây nhiều lo ngại trong giới chuyên gia, trí thức và dân chúng.
Đã từ nhiều năm nay, trước và nhất là kể từ khi chính quyền quyết định phát triển điện hạt nhân, nhiều tiếng nói chỉ trích và phản biện đã cất lên để yêu cầu chính quyền : Hoặc đình hoãn dự án, hoặc nếu tiếp tục xây dựng các nhà máy điện thì phải nỗ lực để bảo đảm tối đa các tiêu chuẩn về an toàn. Khả năng thứ hai đặt Việt Nam trước nhiều thách thức, vì Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn khởi sự trong việc xây dựng nền công nghiệp hạt nhân, việc đào tạo nhân lực có tay nghề thực thụ, để vận hành và bảo đảm an toàn cho các nhà máy, được coi là chỉ vừa mới bắt đầu.
Những nghiên cứu về biến đổi khí hậu do trái đất bị hâm nóng vì khí thải gây hiệu ứng nhà kính trong thời gian gần đây cho thấy diễn biến khí hậu trong tương lai ẩn chứa rất nhiều bất thường. Phát triển điện hạt nhân hay các loại hình năng lượng tái tạo, và lựa chọn ở mức độ như thế nào, để đồng thời bảo đảm nhu cầu năng lượng và hạn chế các tác động môi trường, là quyết định hết sức hệ trọng của một quốc gia, một xã hội.
Trong giới chuyên gia Việt Nam, có nhiều tiếng nói lo ngại các loại hình năng lượng tái tạo hiện nay chưa được chú ý để phát triển đúng mức với các tiềm năng mà Việt Nam có. Nhiều người phản biện cho rằng điện hạt nhân là một sự lựa chọn dễ dãi để đáp ứng cho các nhu cầu năng lượng, được dự báo là sẽ tăng vọt trong những thập niên tới, trong bối cảnh các nguồn tài nguyên năng lượng cổ điển đang cạn kiệt dần và các năng lượng tái tạo  còn chiếm một tỷ trọng rất thấp.
Bảo đảm an toàn của các nhà máy điện hạt nhân, an toàn cho dân cư trong vùng một khi xẩy ra thiên tai lớn, như trận động đất-sóng thần Fukushima hay cơn bão Haiyan ở Philippines mới đây, là một thách thức mà dường như hiện nay chính quyền chưa có giải pháp để thích ứng.
Về chủ đề các thách thức của biến đổi khí hậu với dự án điện hạt nhân ở Việt Nam, tạp chí Khoa học của RFI tuần này xin giới thiệu với quý vị tiếng nói của Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn. Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn nguyên là cố vấn của Nha Kinh tế - Dự báo - Chiến lược của tập đoàn điện lực Pháp EDF. Kể từ khi nghỉ hưu ông tập trung nghiên cứu về điện hạt nhân. Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn từng dành nhiều cuộc phỏng vấn cho RFI.
Phần phỏng vấn Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn (Grenoble)
 
11/12/2013
 
 
RFI : Thưa Giáo sư, như Giáo sư biết, Hội nghị quốc tế về biến đổi khí hậu lần thứ 19 ở Vacxava bế mạc cách đây hơn hai tuần. Được tổ chức hai năm trước Hội nghị quốc tế về khí hậu tại Paris (năm 2015), mà thành công hay thất bại của Hội nghị Paris sẽ có ảnh hưởng quyết định đối với khả năng nhân loại duy trì được mức nhiệt độ không tăng quá 2°C so với thời kỳ tiền công nghiệp hóa, tức là mức tăng nhiệt độ được coi là « tương đối an toàn » đối với hành tinh chúng ta. Đây là điều khiến Hội nghị Vacxava rất được chú ý. Ngay sau khi Hội nghị kết thúc, tạp chí Khoa học hàng tuần của RFI đã có chương trình giới thiệu chung về chủ đề này. Hội nghị Vacxava liên quan như thế nào đến Việt Nam, đặc biệt trong việc đối phó với những biến đổi khí hậu bất thường, có xu hướng ngày càng trở nên khốc liệt hơn là một vấn đề cũng rất được công chúng quan tâm. Trước khi đi vào chủ đề chính, trước hết xin Giáo sư cho biết một số ghi nhận và đánh giá chung của Giáo sư về hội nghị Vacxava vừa qua.
Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn : Nhiều người tham dự đã chỉ trích sự lựa chọn Varsovie cho địa điểm hội nghị. Thực tế, Ba Lan không làm rạng danh châu Âu về việc bảo vệ khí hậu. Ba Lan đã thông báo giữa hội nghị về sự ưu tiên cho « khí đá phiến » (gaz de schiste) và tổ chức song song một cuộc họp nghị thượng đỉnh về than sạch ! Nó giống như việc mời người ta đến tham dự buổi tiệc ăn chơi của ngành công nghiệp thuốc lá được tổ chức bên cạnh một hội nghị quốc tế về ung thư ! Đó là một sự khiêu khích thật sự !
Một điều đáng lưu ý khác : thảm họa tại Philippines do cơn bão Haiyan đã tạo nên cơn chấn động cho toàn thể những người tham gia hội nghị. Đó là cơ hội tốt để các nước phía Nam nhắc nhở các nước phía Bắc về trách nhiệm lịch sử của họ trong việc nóng lên của khí hậu. Liên minh bốn cường quốc đang trỗi dậy Brazil, Nam Phi, Ấn Độ và Trung Quốc tuyên bố không đồng ý một thỏa thuận nhượng bộ.
Cách đây 3 năm, các nước giàu chịu trách nhiệm 52% tổng số khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Từ nay trở đi ta có thể nói rằng các nước phía Bắc và phía Nam chịu trách nhiệm tương đương nhau. Chiếm 29% tổng số khí thải CO2 toàn cầu, Trung quốc đã trở thành nước gây ô nhiễm nhất hành tinh. Các nước đang phát triển và Trung Quốc tố cáo mạnh mẽ các quốc gia công nghiệp về sự chậm trễ trong việc chống lại sự nóng lên của khí hậu. Họ yêu cầu có sự minh bạch hơn trong việc huy động 100 tỷ đô la mỗi năm mà các nước giàu đã hứa tại Copenhague. Sự ích kỉ của nước này, sự không nhân nhượng của nước khác đã không cho phép thỏa thuận tiến triển.
Tố cáo sự chậm chạp và các kết quả đầy thất vọng, các tổ chức môi trường ONG đã rời khỏi Varsovie một ngày trước khi bế mạc hội nghị. Sau khi kéo dài thêm hơn 24 tiếng đồng hồ, một thỏa hiệp vào phút chót mới được thông qua. Câu hỏi đặt ra hiện nay là liệu văn bản Varsovie có thể đưa đến một thỏa thuận tại Paris năm 2015 hay không?
RFI : Trong vấn đề Biến đổi khí hậu, có thể chia ra hai mảng chính. Mảng nguyên nhân, tức là các nhân tố dẫn đến Biến đổi khí hậu và mảng hậu quả, tức là các tác động của Biến đổi Khí hậu. Nhiều quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam, không phải là nguồn mang lại các tác nhân chính gây ra Biến đổi khí hậu, nhưng lại là những nơi có nguy cơ bị Biến đổi Khí hậu tác động nhiều. Theo Giáo sư, trong tình hình Biến đổi Khí hậu hiện nay, những nước nào trên thế giới đứng trước các đe dọa lớn hơn cả ?
GS Nguyễn Khắc Nhẫn : Theo Maplecroft, cơ quan phân tích rủi ro của Anh, 10 nước nghèo nhất là những nước dễ chịu nhiều rủi ro nhất : Bangladesh, Guinée-Bissau, Sierra Leone, Sudan, Nigeria, Haiti, Cam Bốt, Cộng hòa dân chủ Congo, Philippines, Ethiopia.
Nhóm thứ hai - những nước chịu những rủi ro cực độ - là Ấn độ (thứ 20), Pakistan (24), Việt Nam (xếp thứ 26). Việt Nam nằm trong nhóm các nước có nguy cơ đặc biệt lớn. Những rủi ro cho nước ta cũng giống như nhiều nước là : bão ngày càng lớn và thường xuyên hơn, ngập lụt tăng cao do nước biển và sông, sói mòn, đất trượt, tài nguyên nước và dự trữ nước ngọt giảm, mực nước biển tăng, ngập úng, mặn hóa, hiệu suất nông nghiệp giảm, đói kém, tử vong tăng do các dịch bệnh vì nhiệt độ tăng... Nếu các chính phủ chậm trễ trong việc phản ứng, họ sẽ bất lực trước việc di chuyển của hàng trăm triệu người tị nạn vì thời tiết.
RFI : Giáo sư nhìn nhận như thế nào về các chuẩn bị của Việt Nam hiện nay để đối phó với các nguy cơ Biến đổi khí hậu ?
GS Nguyễn Khắc Nhẫn : Trước hết tôi muốn giới thiệu với các bạn cuốn sách nổi bật của Tiến sĩ Nguyễn Thọ Nhân với tiêu đề « Biến đổi khí hậu và Năng lượng » xuất bản năm 2009 tại Nhà Xuất Bản Trí Thức – Hà Nội. Giáo sư Phạm Duy Hiển đã bày tỏ lòng cảm phục đặc biệt đối với tác giả bằng cách giới thiệu vấn đề một cách trân trọng và tài hoa trong lời nói đầu. Giáo sư đã tuyên bố: Đứng trước thảm họa biến đổi khí hậu toàn cầu, chính là cơ hội để mọi người, từ nhà lãnh đạo quốc gia đến chủ doanh nghiệp và người dân thường, nhận ra sai lầm trong lối tu duy, cách hành xử và tập quán sử dụng năng lượng phi phạm của mình. Chỉ có năng lượng tái tạo mới trường tồn cùng loài người như một sắp đặt của Tạo hóa.
Theo tôi, khả năng thích ứng của Việt Nam thấp, do thiếu quyết tâm chính trị và tài chính. Những công việc đồ sộ cần thực hiện không được chậm trễ như : rà soát lại quy hoạch đô thị và kế hoạch phòng chống, xây dựng lại cầu đường và nhà cửa, bảo vệ các công trình, làm sạch hệ thống dẫn nước, bảo vệ các đê, đập, di chuyển dân cư... Nếu chúng ta càng trì hoãn, càng khó cho việc đối đầu với các đe dọa và thiệt hại sẽ lớn hơn, khó xử lý hơn. Còn đợi bao nhiêu thảm họa thời tiết nữa để chính quyền mới dành ưu tiên cho việc chống lại sự nóng lên của khí hậu ?
Nếu xem xét tốc độ tăng trưởng của khí thải hiệu ứng nhà kính, chúng ta phải thi hành ngay bây giờ, mặc dù đây là công việc cần phải làm trường kỳ. Sự phát triển bền vững cần có sự thay đổi về thái độ của dân chúng. Các kĩ sư và các nhà khoa học cần hợp tác chặt chẽ với các chuyên gia về khoa học xã hội, nếu họ muốn thành công trong công việc khó khăn này.
Ngày 6 và 7/11 vừa qua, Philippines đã chịu trận bão Haiyan, vô cùng ác liệt, gây thiệt hại lớn nhất từ nửa thế kỉ nay : gió từ 315 km/h (đến 379 km/h). Cơn bão đã tàn phá tất cả trên đường đi từ đông sang tây với chiều dài 600 km, như một cơn sóng thần. Cơn bão Haiyan, thay đổi đột ngột đường đi của nó và giảm vận tốc gió xuống còn 120-130 km/h, trước khi đổ bộ vào Viet Nam. Sự may mắn đó khó lặp lại nhiều lần. Làm thế nào để đất nước ta có thể đối mặt với một thảm họa như ở Philippines? Vì lí do an toàn, nhà chức trách đã di chuyển hơn 600.000 người. Nhưng một sự di tản lớn hơn không phải là không thể xảy ra trong lần báo động khác.
Những trận lụt kinh hoàng như vào tháng 11/2013 vừa tàn phá miền Trung Việt Nam có nguy cơ sớm trở lại và đặt dân chúng vào tình thế hết sức nguy hiểm. Ở đây, sự phá rừng đã làm tình hình thêm trầm trọng.
Đầu tháng 12 cùng năm nay, đường phố của nhiều khu dân cư ở TP HCM đã biến thành sông, do vỡ đê. Điều chưa từng thấy trong vòng 60 năm qua. Cũng như tại Hà Nội và nhiều thành phố khác, những cảnh tệ hại này sẽ lặp lại khi mưa lớn. Chiến lược khả dĩ nào để đối đầu với thảm cảnh hằng năm này và để giảm thiểu những hậu quả tai hại đó ?
Chính quyền cũng lo ngại cho sự an toàn của 1200 hồ chứa và đập trong tổng số hàng ngàn cái hiện nay. Mỗi năm hơn chục cơn bão và lũ làm khổ miền Trung Việt Nam, vốn khó khăn về kinh tế hơn miền Bắc và miền Nam.
Người dân lo ngại và phản đối mạnh về việc xả nước đồng thời của hàng chục đập đầu nguồn, điều này đã làm tăng lưu lượng nước một cách nguy hiểm ở hạ lưu, gây nên nhiều thương vong và làm hư hại mùa màng cũng như hàng ngàn ngôi nhà. Tại sao phải xây dựng cấp tốc các đập như thế ? Liệu việc hoạch định các công trình thủy điện trong hệ thống điện quốc gia có được thực hiện đúng phương pháp khoa học và đáng tin cậy không? Nhà nước vừa từ chối cấp phép cho việc thực hiện 424 dự án. Đây là thời điểm quan trọng để lập lại trật tự trong lĩnh vực này.
RFI : Dự án Điện hạt nhân ở Việt Nam là mối quan tâm thường trực của Giáo sư từ 10 năm nay và Giáo sư cũng đã từng dành cho RFI một số cuộc phỏng vấn. Giáo sư đã nhiều lần nhấn mạnh đến tính chất không an toàn và tốn kém của điện hạt nhân. Riêng về vấn đề Điện hạt nhân trước nguy cơ Biến đổi Khí hậu, xin Giáo sư cho biết những điều mà theo Giáo sư cần phải lưu ý.
GS Nguyễn Khắc Nhẫn : Hiện nay chính phủ Việt Nam có chương trình dự kiến lắp đặt 14 lò phản ứng hạt nhân (từ 1000 đến 1500 MW), khởi công từ 2014 và hoàn tất toàn bộ vào năm 2030 tại 5 tỉnh miền Trung Việt Nam, một vùng có rủi ro hết sức cao và diện tích quá eo hẹp. Các chuyên gia đề nghị những địa điểm này có lẽ không hề nghĩ đến những cơn gió bão có thể lên đến 350 km/h ? Vì vậy, tôi đề nghị chính phủ để khỏi bị ảnh hưởng trực tiếp các thảm họa thiên nhiên kinh khủng nối tiếp nhau, hãy tuyên bố từ bỏ ngay một chương trình quá tham vọng và tốn kém như vậy trước khi quá muộn.
Với độ lùi của thời gian và tính đến tần suất xuất hiện của các hiện tượng thiên nhiên (bão, động đất, lũ lụt, núi lửa) mà Philippines gánh chịu, nhân dân nước này có lẽ đã cảm thấy nhẹ nhõm phần nào vì nhà máy điện hạt nhân Bataan (620 MW) xây xong năm 1986, tốn 2,3 tỷ đô la, nhưng không được phép chạy. Chính phủ vào thời đó đã có một quyết định hết sức sáng suốt, biết hi sinh lò phản ứng công suất lớn đầu tiên, vì lí do gần điểm đứt gãy địa chất và núi lửa hoạt động.
Khi xảy ra trận lũ ngày 29/12/1999, Pháp từng suýt phải chịu một thảm họa lớn tại một nhà máy điện hạt nhân cách Bordeaux 60 km. Các máy bơm và hệ thống an toàn bị ngập do nước dâng lên đột ngột.
Về phần Việt Nam, nếu muốn khiêu khích tạo hóa, một hai cứ xây dựng những nhà máy Điện hạt nhân này, chính phủ sẽ phải lên kế hoạch di tản hàng triệu dân ở miền Trung Việt Nam (đặc biệt là các tỉnh Ninh Thuận, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và Hà Tĩnh). Đồng bào sẽ phải sống trong sự sợ hãi của ba đe dọa thường trực : bão, lũ, phóng xạ, chưa kể động đất... hay sóng thần!
Sự nóng lên của khí hậu đặt ra các vấn đề đáng lo ngại về an toàn, trong thời gian xây dựng các nhà máy cũng như trọn thời gian khai thác. Hàng chục và sau đó là hàng trăm tỷ đô la đầu tư cho chương trình hạt nhân này sẽ có ích lợi xã hội hơn nhiều, nếu dùng số tiền này để chi phí cho kế hoạch thích nghi với biến đổi khí hậu của quốc gia ! Việt Nam phải dựa trên sức mình trước hết, bởi sự đóng góp của các quốc gia giàu mạnh sẽ quá nhỏ, nếu xét đến số lượng những nước trên thế giới cần được hỗ trợ.
RFI : Nhiều người cho rằng phát triển điện hạt nhân tham gia vào việc giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính, và đây có thể cũng là quan điểm của nhiều giới chức tại Việt Nam, xin Giáo sư cho biết nhận định của Giáo sư về chuyện này ?
GS Nguyễn Khắc Nhẫn : Thật là sai lầm khi cho rằng hạt nhân có thể cứu được trái đất khỏi sự nóng lên của thời tiết. Thực ra, hạt nhân, trên đà suy thoái ngay cả trước thảm họa Fukushima, vào năm 2011 chỉ còn chiếm 11,7% tổng năng lượng điện thế giới. Hai phần ba năng lượng hạt nhân khi sản xuất bị mất đi dưới dạng nhiệt, đó là điều gây nên những tổn thất cho môi trường. Khác với những lời tuyên truyền không đúng sự thật, lượng khí CO2 thải ra trong toàn bộ các khâu của quá trình hạt nhân không phải thấp!
Tính đến sự đầu tư cần thiết cho sự tăng cường liên tục về an toàn, giá thành quá cao cho việc tháo gỡ nhà máy, việc quản lý lâu dài các chất thải phóng xạ và tổn thất gây ra bởi thảm họa, giá một kWh điện hạt nhân trên thực tế khó cạnh tranh được với năng lượng cổ điển hay tái tạo ! Hạt nhân quá nguy hiểm và phản kinh tế ! Tóm lại, để đối mặt với đe dọa khí hậu, Việt Nam cũng như tất cả các nước trên thế giới, không có lựa chọn chiến lược nào khác ngoài việc khai thác triệt để ngay từ bây giờ các nguồn năng lượng tái tạo, khuyến khích hiệu suất năng lượng và tiết kiệm năng lượng.
Đầu tháng 5/2011, bản báo cáo của 120 chuyên gia hợp tác với GIEC tuyên bố rằng đến 2050, nếu tất cả các nước đều quyết tâm, thì năng lượng tái tạo có thể chiếm gần 80% của tổng nhu cầu thế giới! Trong năm 2012, trên 250 tỷ đô la đã được đầu tư vào lĩnh vực then chốt này. Việt Nam không nên lỡ chuyến tàu của cuộc cách mạng năng lượng đã bắt đầu lăn bánh trên đường rầy.
Đối mặt với đe dọa khí hậu, chúng ta phải hành động ngay hôm nay, ngày mai sẽ quá trễ !
RFI : Giáo sư làm công việc phổ biến kiến thức trong lĩnh vực điện hạt nhân từ nhiều năm nay. Bản thân Giáo sư đã liên tục đưa ra các cảnh báo đối với chính quyền Việt Nam. Giáo sư có cảm thấy tiếng nói của mình được chính quyền hưởng ứng và được lắng nghe ở mức độ nào đó không ?
GS Nguyễn Khắc Nhẫn : Đây là một câu hỏi rất tế nhị. Từ 2003 đến nay, tôi đã viết và trả lời phỏng vấn cho các đài phát thanh ở Mỹ, ở Pháp, ở Anh... và đã được báo chí trong nước cũng như ngoại quốc đăng tải. Đến giờ nay tôi không biết chính phủ sẽ quyết định như thế nào, nhưng ngày đêm, tôi vẫn hy vọng những bài tôi viết, dành tất cả trí óc và tâm huyết đối với đất nước, đến giờ chót, chính phủ có thể rút lui có trật tự. Nếu không, theo tôi đất nước chúng ta sẽ lâm nguy, và sau này, thế hệ con cháu sẽ trách móc anh em chúng ta không có can đảm bảo vệ môi trường, bảo vệ đất nước, để dân chúng an lành, không sợ hạt nhân, không sợ khí hậu. Xin cảm ơn RFI đã cho tôi cơ hội để trả lời một cách thẳng thắn và đầy tâm huyết đối với đất nước.
RFI xin chân thành cảm ơn Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn.

***
Có nhiều lo ngại về việc Việt Nam không đủ khả năng bảo đảm được an toàn cho các nhà máy điện hạt nhân được dự kiến xây dựng tại miền Trung, trước các thiên tai bất thường do biến đổi khí hậu. Gần đây báo chí trong nước đưa tin dự án nhà máy tại Ninh Thuận có thể bị chậm lại, vì phía Nhật đang lúng túng trong hệ thống quản lý việc xuất khẩu công nghệ hạt nhân và xử lý những cuộc khủng hoảng hạt nhân ngoài dự kiến. Ưu tư của Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn một lần nữa lưu ý công luận đến các vấn đề an toàn, tính hiệu quả và tác động môi trường của điện hạt nhân.
Quyết định phát triển điện hạt nhân là một bộ phận của quy hoạch năng lượng tổng thể quốc gia, chủ đề vẫn tiếp tục được giới chuyên gia bàn luận tại Việt Nam. Theo Giáo sư Bùi Huy Phùng (Chủ tịch Hội đồng Khoa học - Hiệp hội Năng lượng Việt Nam), yếu điểm chính hiện nay của Việt Nam là tính chất biệt lập của các phân ngành năng lượng (than, dầu khí, năng lượng tái tạo...), “tư liệu, số liệu chưa đủ độ tin cậy...” (Theo trang mạng ‘‘Năng lượng Việt Nam’’). Trong một bài phân tích khác, vị chuyên gia nói trên đã nêu ra một loạt các nhược điểm khác của quy hoạch năng lượng Việt Nam hiện nay (tức “Quy hoạch điện VII" cho giai đoạn 2011-2020, có tính đến năm 2030), “Quy hoạch Điện VII thể hiện tính thiếu thống nhất, bất cập khi xây dựng quy hoạch riêng rẽ. Nguyên nhân là do tính toán dự báo với số liệu năm cơ sở thiếu chính xác, thiên cao. Trong Quy hoạch này, phương pháp hệ số đàn hồi điện đối với GDP thường chỉ dùng để dự báo ngắn hạn, mang tính kiểm tra, hoặc tính phác thảo, ở đây lại được dùng làm chủ yếu. Nội dung sử dụng năng lượng hiệu quả và tiết kiệm chưa được chú ý đúng mức. Cách tính toán này đã đẩy nhu cầu điện lên cao và không làm rõ được nhu cầu ấy sẽ sử dụng vào đâu (…) » (Theo trang mạng của Chương trình Quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả).
Trong tổng quy hoạch điện Việt Nam, nhiều chuyên gia nhấn mạnh đến các rào cản đối với các năng lượng tái tạo trong chính sách, cơ chế tổ chức thực hiện… Có vẻ như trong cuộc chơi hướng đến năng lượng sạch, Việt Nam đang tụt hậu. Cho đến nay, theo chúng tôi được biết, Việt Nam vẫn chưa phải là thành viên của Cơ quan Năng lượng Tái tạo Quốc tế IRENA (International Renewable Energy Agency), bao gồm hơn 170 quốc gia.
Các tin bài liên quan
Một cựu lãnh đạo Nasa kêu gọi giữ nhiệt độ Trái đất như hiện tại
Hội nghị Vacxava có xứng tầm thách thức Biến đổi Khí hậu ?
Hội nghị khí hậu Vacxava đạt được thỏa thuận trong gang tấc
Bão Haiyan phủ bóng hội nghị LHQ về khí hậu tại Ba Lan
Than đá, nguồn năng lượng của tương lai
Điện hạt nhân tiếp tục bị chỉ trích nhân dự án Đà Lạt
Việt Nam cần xét lại chính sách phát triển điện hạt nhân
Nhân loại còn rất ít cơ hội để giữ nhiệt độ Trái Đất không tăng quá 2°C
Biến đổi khí hậu : Nhóm GIEC báo động
Biến đổi khí hậu: Các đảo quốc tí hon muốn lãnh đạo hành tinh
Việt Nam nên dừng chương trình điện hạt nhân
Suy nghĩ về an toàn hạt nhân sau tai nạn Fukushima Nhật Bản
RFI phỏng vấn GS. Nguyễn Khắc Nhẫn về dự án ITER
Kinh tế Việt Nam có nguy cơ bị biến đổi khí hậu tác hại nặng
Quý độc giả quan tâm hơn có thể tham khảo bài viết về dưới đây của Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn và nhiều bài viết khác của ông trên trang blog cá nhân
  Thất vọng tại Varsovie !
Điện hạt nhân Việt Nam đối mặt với biến đổi khí hậu
 
1- Hội nghị về biến đổi khí hậu ở Varsovie vừa mới bế mạc có gì lạ?
 
Hội nghị lần thứ nhất của các thành viên Liên hiệp quốc (COP 1) về biến đổi khí hậu diễn ra tại Berlin năm 1995. Từ đó, nó diễn ra hằng năm.
 
Nghị định thư Kyoto nổi tiếng (COP 3) tổ chức vào năm 1997. Đó là công cụ duy nhất buộc các nước công nghiệp phát triển phải giảm lượng khí thải. Nga, Canada và Nhật Bản đã ra khỏi nghị định thư này. Mỹ và Trung Quốc không phê chuẩn. Úc và châu Âu (chiếm 15% tổng lượng khí thải toàn cầu) là những nước duy nhất đối mặt với sự nóng lên của khí hậu !
 
Hội nghị lần thứ 19 (COP 19), họp tại Varsovie từ ngày 11 đến ngày 22 tháng 11, quy tụ khoảng 9000 đại biểu đến từ 195 quốc gia. Người ta có thể nói rằng đó là một hội chợ hơn là một hội nghị !
 
Nhiều người tham dự đã chỉ trích sự lựa chọn Varsovie cho địa điểm hội nghị. Thực tế, Ba Lan không làm rạng danh châu Âu về việc bảo vệ khí hậu. Ba Lan đã thông báo giữa hội nghị về sự ưu tiên cho « khí đá phiến » (gaz de schiste) và tổ chức song song một cuộc họp nghị thượng đỉnh về than sạch ! Nó giống như việc mời người ta đến tham dự buổi tiệc ăn chơi của ngành công nghiệp thuốc lá được tổ chức bên cạnh một hội nghị quốc tế về ung thư ! Đó là một sự khiêu khích thật sự !
 
Nước chủ nhà còn cách chức bộ trưởng môi trường Marcin Korolec, nhân vật chủ tọa hội nghị. Một việc chưa từng thấy !
 
Một điều đáng lưu ý khác : thảm họa tại Philippines do cơn bão Haiyan đã tạo nên cơn chấn động cho toàn thể những người tham gia hội nghị. Noi theo trưởng đoàn Philippines, Naderev Sano, nhiều nhà hoạt động môi trường có mặt tại đó đã tiến hành việc nhịn ăn nhằm thể hiện tình đoàn kết với người dân Philippines.
 
Varsovie là cơ hội tốt để các nước phía Nam nhắc nhở các nước phía Bắc về trách nhiệm lịch sử của họ trong việc nóng lên của khí hậu. Những nước phía Bắc không muốn trả tiền cho việc khắc phục hậu quả hay bị liên lụy trong các vụ kiện tụng. Liên minh BASIC (Brésil, Afrique du Sud, Inde, Chine) tuyên bố không đồng ý một thỏa thuận nhượng bộ (au rabais). Sự ích kỉ của nước này, sự không nhân nhượng của nước khác đã không cho phép thỏa thuận tiến triển. Thời gian đàm phán không phù hợp với sự cấp thiết của khí hậu.
 
Thủ đô của Ba Lan không phải là nơi để đàm phán mà là nơi đối đầu giữa các quốc gia và các nền kinh tế. Nhật Bản và Úc đã thể hiện một bước lùi khi tuyên bố giảm mục tiêu của họ về lượng khí thải CO2 vào năm 2020 !
 
Nhìn chung, Varsovie chỉ là bàn đạp cho hội nghị Paris 2015 (COP 21). Người ta đã giữ thể diện bằng cách đẻ ra một lịch trình. Các quốc gia có 2 năm để viết ra một kịch bản và xây dựng khuôn khổ để giải quyết bao vấn đề quan trọng.
 
Kể từ sau thất bại của hội nghi Copenhague năm 2009 (COP 15) sự thải khí hiệu ứng nhà kính tiếp tục tăng lên và hiện nay đạt ngưỡng 400 ppm (parties par millions). Năm 2012, con số trên toàn thế giới là 34,5 tỉ tấn CO2.
 
Một nghiên cứu gần đây của cơ quan đánh giá môi trường Hà Lan (PBL Netherlands Environmental Assessment Agency) cảnh báo rằng lượng khí thải của tất cả các nước đang phát triển cộng dồn từ cách mạng công nghiệp (1850) đã theo kịp và sẽ sớm vượt qua số lượng của các nước giàu mạnh.
 
Cách đây 3 năm, các nước giàu chịu trách nhiệm 52% tổng số khí thải gây hiệu ứng nhà kính : Mỹ (18,6%), Liên minh Châu Âu (17,1%), Nga (7,2%) so với 48% đến từ các nước phía Nam : Trung quốc (11,6%), Indonésie (4,8%), Ấn độ (4,1%), Brésil (3,9%). Từ nay trở đi ta có thể nói rằng các nước phía Bắc và phía Nam chịu trách nhiệm tương đương nhau. Chiếm 29% tổng số khí thải CO2 toàn cầu, Trung quốc đã trở thành nước gây ô nhiễm nhất hành tinh, theo sau là Mỹ (16%) và Châu Âu (11%). Ảnh hưởng của Mỹ giảm đi, một phần là do thay thế than bằng khí đá phiến (gaz de schiste).
 
Hiệp định Paris, bao gồm nhiều giai đoạn từ đây đến năm 2050, phụ thuộc vào sự cam kết tài chính, chiến lược phát triển của nhiều quốc gia, và thiện chí của các nước có công nghiệp mạnh.
 
Theo Climate Action Tracker, nếu không có tiến triển nào về sự bảo vệ môi trường, trái đất sẽ bị nóng thêm 3,7° vào năm 2100.
 
Trong nhóm G77, các nước đang phát triển và Trung Quốc tố cáo mạnh mẽ các quốc gia công nghiệp về sự chậm trễ trong việc chống lại sự nóng lên của khí hậu. Họ yêu cầu có sự minh bạch hơn trong việc huy động 100 tỷ đô la mỗi năm mà các nước giàu đã hứa tại Copenhague, nhằm giúp đối mặt với sự nóng lên của khí hậu. Chỉ 30 tỷ đô la đã giải ngân từ năm 2010 đến 2012, sau đó chẳng có gì nữa. Không có một cam kết mới nào được cụ thể hóa tại Varsovie !
 
Điểm tích cực liên quan đến chương trình Redd+ (giảm khí CO2 do việc phá rừng và làm giảm chất lượng rừng). Mỹ, Anh, Na Uy và Đức tuyên bố sẽ chuyển cho Bio Carbon 280 triệu đô la, nhằm khởi động chương trình này.
 
Tuy nhiên, ONG Friends of the Earth International có ý trách móc vì không có lộ trình cho vấn đề tài chính ! Chỉ có những khoản cũ chứa trong phong bì mới hay tiền từ các nguồn khác.
 
Theo AIE (Cơ quan năng lượng quốc tế), chỉ riêng về lĩnh vực năng lượng, cần phải đầu tư thêm khoảng 1000 tỷ đô la mỗi năm cho đến năm 2020, mới hướng đến các nguồn năng lượng sạch được.
 
Những lobby hạt nhân, năng lượng hóa thạch hay khí đá phiến (gaz de schiste) gây áp lực để bảo vệ quyền lợi của họ. Các cuộc đối thoại thường bế tắc do các nước giàu mạnh không muốn đền bù các nước phía Nam đã chịu ảnh hưởng các thiệt hại do biến đổi khí hậu. Như tại Doha (COP 18), kịch bản tệ hại đã được biết trước.
 
Tố cáo sự chậm chạp và các kết quả đầy thất vọng, các tổ chức môi trường ONG ( Greenpeace, Oxfam, WWF... ) đã rời khỏi Varsovie một ngày trước khi bế mạc hội nghị.
 
Sau khi kéo dài thêm hơn 24 tiếng đồng hồ với những cuộc thương lượng liên tục, một thỏa hiệp vào phút chót đã được thông qua. Văn bản Varsovie yêu cầu tất cả các nước phải đóng góp phần hợp tác của mình trước hội nghị Paris, và từ nay đến quý đầu tiên năm 2015 nếu có thể. Những nước đang phát triển từ chối chữ cam kết, cho rằng quá ràng buộc. Họ tranh đấu không được một cơ quan mới mà chỉ một cơ chế liên quan đến những thiệt hại và mất mát gây ra do các hiện tượng khí hậu bất thường. Đó là một trong những chủ đề gai góc nhất bởi các nước giàu không chấp nhận nguyên tắc đền bù. Đối mặt với châu Âu và Mỹ, Ấn độ và Trung Quốc đã chọn thái độ không nhân nhượng. Họ muốn được xem là các nước đang phát triển để không phải gánh vác những trách nhiệm như các nước giàu mạnh. Mức độ cụ thể trong lịch trình đến Paris vẫn còn là điều mơ ước. Sau hai tuần không kết quả cụ thể, mục tiêu của Varsovie là làm sao tránh được một thất bại mang tiếng như ở Copenhague !
 
Câu hỏi đặt ra hiện nay là liệu văn bản Varsovie, dựa vào các cuộc đàm phán trong tương lai, có thể đưa đến một thỏa thuận tại Paris năm 2015, lần đầu tiên với cam kết của tất cả các nước trên thế giới hay không?
 
Thỏa thuận Paris về việc giảm khí hiệu ứng nhà kính, cho phép giới hạn sự nóng lên của khí hậu toàn cầu ở 2°C so với giai đoạn trước công nghiệp, sẽ có hiệu lực vào năm 2020 (mục tiêu 2°C là giới hạn mà nếu lớn hơn thì bộ máy khí hậu toàn cầu sẽ có nguy cơ lồng lên). Từ đây đến 2015, nhiều cuộc họp đã được lên kế hoạch, trong đó có hội nghị thượng đỉnh các nguyên thủ quốc gia tại New York và hội nghị Perou (COP 20) vào năm 2014.
 
2- Vài kết luận chính của Ủy ban Liên Chính phủ về Biến đổi Khí hậu ( GIEC ):
 
 Theo nhà khí tượng học Jean Jouzel, Phó chủ tịch GIEC (Ủy ban Liên Chính phủ về Biến đổi Khí hậu), giả thiết về vai trò của CO2 trong hiệu ứng nhà kính đã được nêu ra thông qua các tính toán lý thuyết từ năm 1824 của nhà toán học người Pháp Jean-Baptiste-Fourier. Nhiệt độ trung bình của hành tinh có mối quan hệ với tỉ lệ khí cacbonic có trong khí quyển qua các thời kì. Trong vòng nửa thế kỉ qua, Jean Jouzel đã kiểm chứng rằng nồng độ thật sự, đo được trong không khí, phù hợp với nồng độ chứa trong bọt của các mẩu tuyết đá trong cùng năm. Hoạt động của con người đã giải phóng ra một lượng tương đương với 531 tỉ tấn carbon trong không khí.
 
Jean Jouzel cho rằng với khối lượng dữ liệu khổng lồ đã thu thập được, không có lí do gì để tin rằng sự nóng lên là kết quả của một hiện tượng tự nhiên, mà chính là kết quả hoạt động của con người. Do nhiệt độ tăng nhanh trong khoảng từ 1970 đến 2000, nhưng sau đó chậm lại và thậm chí giảm trong mười lăm năm gần đây, phái hoài nghi tiếp tục ngờ vực kết luận của GIEC.
 
Jean Jouzel thừa nhận rằng mối quan hệ đó không phải tuyến tính và sự nóng lên không chỉ đo bằng nhiệt độ. Ông ta khuyên nên nhanh chóng xây dựng một nền kinh tế ít carbon, tức là ít năng lượng hóa thạch, nếu chúng ta muốn hạn chế thiệt hại với sự tăng nhiệt độ trung bình là 2°C năm 2100. Đưa ra một giá hợp lý cho carbon là một điều cần thiết.
 
Nhiều nước đã cam kết giảm 4 lần lượng khí thải CO2 từ đây đến năm 2050. Về mặt kĩ thuật, điều này có thể. thực hiện được. Phương pháp giam hảm CO2 thải ra từ các nhà máy nhiệt điện có nhiều hứa hẹn. Bằng cách tăng chi phí năng lượng 25% ta có thể xử lý ngay tại gốc, tức là ngay tại đầu ra của các ống khói, tất cả sự ô nhiễm carbon. Trong cuốn sách The Climate Casino, nhà kinh tế gia Mỹ, William Nordhaus, đề nghị nên ban hành gấp một thuế (taxe) carbon. Và thuế này phải được tăng liên tục đến gấp đôi năm 2030.
 
Theo tạp chí Science ngày 8/3/2013, nhiệt độ trái đất hiện tại cao hơn phần lớn trong số 11 thiên niên kỉ gần đây. Điều cần chú ý là tốc độ nóng lên hiện nay là hết sức khác thường. Trong thế kỉ qua, khí hậu đã hoàn toàn ra khỏi phạm vi biến thiên của giai đoạn nằm giữa hai thời kì đóng băng (interglaciaire).
 
Theo Al Gore, đồng Nobel hòa bình với GIEC năm 2007, bầu không khí là một ống cống lộ thiên bởi nó nhận hằng ngày khoảng 90 triệu tấn chất thải ô nhiễm. Các thảm họa gây nên bởi thời tiết cực độ ngày càng đáng lo sợ và thường xuyên hơn : bão Sandy từ 25 đến 30/10/2012 từ vùng Caraibe đến Canada đi qua New York, bão Bopha ngày 5/12/2012 tại Philippines, lốc xoáy ngày 20/5/2013 tại Oklahoma, lụt vào tháng 5-6/2013 tại Đức, Hungary, Áo, Slovakia, và nhất là gần đây siêu bão Haiyan tại Philippines, lụt khủng khiếp tại miền trung Việt Nam.
 
Trong vòng 30 năm qua, các thảm họa thiên nhiên đã làm 2,5 triệu người thiệt mạng, trong đó ba phần tư là do các hiện tượng đặc biệt bất thường. Thiệt hại trong khoảng thời gian này lên đến 4000 tỷ đô la.
 
Ngày 27/11/2013 tại Stockholm, Chủ tịch GIEC, Tiến sĩ Rajendra Pachauri, đã giới thiệu bản báo cáo đánh giá thứ 5 của GIEC, sau khi được toàn thể 195 đoàn thành viên thông qua. Khoảng 2500 chuyên gia khoa học đã phân tích 9200 nghiên cứu dựa trên phương pháp phát hiện từ xa thông qua vệ tinh hay công cụ khác, và bằng biện pháp đo đạc trực tiếp.  
 
Những biến đổi khí hậu quan trọng bắt đầu từ những năm 1950 : sự thải khí hiệu ứng nhà kính tăng mạnh, đại dương và bầu không khí nóng hơn, mực nước biển tăng lên, lượng băng tuyết giảm xuống.
 
Từ 1880, trái đất đã nóng lên khoảng 0,85°C. Mực nước biển trung bình tăng 19 cm giữa 1901 và 2010. Từ đây đến 2050, nó sẽ tăng từ 17 cm đến 38 cm và từ 26 cm đến 1 m từ đây đến 2100 do tác động của sự tan chảy băng và sự nở ra vì nhiệt của nước.
 
Nhiệt độ trung bình bề mặt trái đất sẽ tăng từ 0,3 đến 4,8° từ đây đến 2100.
 
Tính quán tính của hệ thống này mới là vấn đề phức tạp, bởi phần lớn các đặc điểm về biến đổi khí hậu vẫn sẽ tiếp tục trong nhiều thế kỉ ngay cả sau khi thải khí CO2 được chận đứng!
 
3 - Pháp có thể gặp những nguy cơ gì ?
 
Từ năm 2011, Pháp đã có một kế hoạch quốc gia thích nghi với sự thay đổi khí hậu, nhằm đối đầu với những đe dọa khác nhau như : nắng nóng, mưa lớn, ngập lụt đô thị, lũ, khô hạn, cháy rừng, giảm lưu lượng mùa hè, lở tuyết, đất trượt, xói mòi, ngập nước, mặn hóa và những bệnh tật mới...
 
Theo Serge Planton tại Météo France và là người tham gia vào GIEC, những đợt nắng nóng kinh khủng như năm 2003 (15 000 nạn nhân) có thể tái diễn ở Pháp 4 đến 5 lần từ năm 2020 đến 2050. Nó gây nên một nguy cơ rất lớn đối với người già. Nhiệt độ cao của nước cũng gây ra vấn đề đối với việc làm mát các lò phản ứng hạt nhân của EDF và công nghiệp.
 
Tài nguyên nước dưới mặt đất sẽ giảm 30% vào năm 2070, theo Nadia Amraoui, nhà thủy văn học tại BRGM (Trung tâm nghiên cứu mỏ - địa chất)
 
Mực nước ven biển của Pháp đã tăng trung bình từ 10 đến 20 cm vào thế kỉ 20.
 
Những kịch bản bi quan về mực nước biển tăng cao từ 50 cm đến 1m đã được nghiên cứu nhằm đánh giá những nguy cơ về ngập tràn hay xâm mặn.
 
Về mặt vệ sinh y tế, 50% dân Pháp sẽ bị dị ứng từ đây đến 2050 vì lí do ô nhiễm không khí tăng cao và chu kì phấn hoa kéo dài.
 
4- Những nước nào trên thế giới bị đe dọa hơn cả?
 
Theo Maplecroft, cơ quan phân tích rủi ro của Anh, 67 quốc gia với sản lượng tổng cộng là 44.000 tỷ đô la sẽ chịu những hậu quả hết sức tai hại của các hiện tượng khí hậu bất thường ngày càng nhiều (nắng nóng, hạn hán, lũ lụt, bão, mực nước biển tăng lên...). 10 nước nghèo nhất lại là những nước có khả năng chịu rủi ro cao nhất : Bangladesh, Guinée-Bissau,, Sierra Leone, Soudan, Nigéra, Haiti, Cambodge, Cộng hòa dan chủ Congo, Philippines, Ethiopie.
 
Những nước chịu những rủi ro cực độ là Ấn độ (thứ 20), Pakistan (24), Việt Nam (26). Trong danh sách những nước rủi ro cao có Indonésie (38), Thailande (45), Trung Quốc (61). 
 
Các nước bắc Âu chịu rủi ro thấp nhất : Islande, Na Uy, Irlande, Phần Lan, Luxembourg, Đan Mạch.
 
Mặc dù có bờ biển chịu ảnh hưởng của mực nước biển tăng lên và bão tố, Mỹ được xếp vào các nước có rủi ro thấp (158). Về các thủ đô ít rủi ro, có Paris (164) và London (173). Ngược lại, 5 thành phố bị đe dọa nhất là Dacca, Bombay, Manille, Calcutta, Bangkok (theo Ngân hàng thế giới, trong trường hợp mức nước biển tăng thêm 15 cm và mưa rất lớn, và nếu thiếu chính sách thích nghi, diện tích bị ngập ở Bangkok có khả nãng lên đến 40% vào năm 2030). 
 
Nếu các chính phủ chậm trễ trong việc phản ứng, họ sẽ bất lực trước việc di chuyển của hàng trăm triệu người tị nạn vì thời tiết.
 
5- Những nhà máy Điện hạt nhân ở Việt Nam trước sự biến đổi khí hậu:
 
Trước hết tôi muốn giới thiệu với các bạn cuốn sách nổi bật của Tiến sĩ Nguyễn Thọ Nhân với tiêu đề « Biến đổi khí hậu và Năng lượng » xuất bản năm 2009 tại Nhà Xuất Bản Trí Thức – Hà Nội. Giáo sư Phạm Duy Hiển đã bày tỏ lòng cảm phục đặc biệt đối với tác giả bằng cách giới thiệu vấn đề một cách trân trọng và tài hoa trong lời nói đầu.
 
Như đã nói ở trên, Việt Nam, xếp hạng 26, nằm trong nhóm các nước có nguy cơ đặc biệt lớn. Những rủi ro cho nước ta cũng như các nước châu Á gồm : bão ngày càng lớn và thường xuyên hơn, ngập lụt tăng cao do nước biển và sông, lở đá do tan băng ở Himalaya, xói mòn, đất trượt, tài nguyên nước và dự trữ nước mềm giảm, mực nước biển tăng, ngập úng, mặn hóa, hiệu suất nông nghiệp giảm, đói kém, tử vong tăng cho các bệnh tiêu chảy, dịch tả lan tràn do nhiệt độ tăng...
 
Khả năng thích ứng của Việt Nam thấp, do thiếu quyết tâm chính trị và tài chính. Những công việc đồ sộ cần thực hiện không được chậm trễ như : rà soát lại quy hoạch đô thị và kế hoạch phòng chống, xây dựng lại cầu đường và nhà cửa, bảo vệ các công trình, làm sạch hệ thống dẫn nước, bảo vệ các đê, đập, di chuyển dân cư... Đừng quên rằng nông nghiệp là nguồn sản xuất metan lớn (40 lần nguy hiểm hơn CO2). Các súc vật chăn thả gặm cỏ, đồng lúa, phân, và cây cỏ lên men cũng thải ra metan. 
 
Phải xây dựng gấp rút nền kinh tế ít carbon. Nếu chúng ta càng trì hoãn, càng khó cho việc đối đầu với các đe dọa và thiệt hại sẽ lớn hơn, khó xử lý hơn. Còn phải đợi bao nhiêu thảm họa thời tiết nữa để chính quyền mới dành ưu tiên cho việc chống lại sự nóng lên của khí hậu ?
 
Dĩ nhiên, đó là một thách đố trường kỳ. Tuy thế, nếu xem xét tốc độ tăng trưởng của khí thải hiệu ứng nhà kính, chúng ta phải thi hành ngay bây giờ. Sự phát triển bền vững cần sự thay đổi về thái độ của dân chúng. Các kĩ sư và các nhà khoa học cần hợp tác chặt chẽ với các chuyên gia về khoa học xã hội nếu họ muốn thành công trong công việc khó khăn này.
 
Ngày 6 và 7/11 vừa qua, Philippines đã chịu trận bão Haiyan, vô cùng ác liệt, gây thiệt hại lớn nhất từ nửa thế kỉ nay : gió từ 315 km/h (đến 379 km/h), áp suất tại tâm là 870 hPa, sóng cao 10 m. Xếp vào cấp 5, cao nhất theo thang đo Saffir-Simpson, cơn bão đã tàn phá tất cả trên đường đi từ đông sang tây với chiều dài 600 km, như một cơn sóng thần. Bão Haiyan đã vượt qua ngưỡng 252 km/h của cấp độ 5. Nhiều nhà khí tượng học nhiệt đới đã đề nghị thêm cấp độ 6, bởi thang Saffir-Simpson đã lỗi thời ! Trong quá khứ, 3 trận bảo hết sức mạnh : Ida (1958), Nancy (1961), Violet, (1961), với tốc độ gió từ 320 đến 350 km/h đã diễn ra, tuy nhiên lúc đến bờ, cường độ giảm dần.
 
Theo Will Steffen, nhà khí tượng học tại đại học quốc gia Úc, khi lốc xoáy hình thành, phần lớn năng lượng của nó được lấy từ nước bề mặt ở đại dương, càng ngày càng nóng (26°). Một cơn bão hay một đợt bão luôn kèm theo lốc xoáy ở các vùng ven biển. Mực nước biển dâng lên do áp suất thấp tại tâm của hệ thống lốc xoáy.
 
Sức mạnh của bão Haiyan, lớn hơn trận bão Karina tháng 8/2005 (đã tàn phá tiểu bang Mississipi của Mỹ), đã khiến nước biển tràn ngập nhiều km sâu trong đất liền.
 
Ta có thể ước tính nhanh năng lượng của gió tức là động năng của khối khí theo công thức E= ½ mV2 ( E tính bằng joules, khối lượng khí m là kg, V là m/s ).
 
Qua vài hôm sau thảm họa rùng rợn (đã làm chết và mất tích ít nhất 7500 người), chính phủ Philippines đã lập tức ra lệnh trồng cây để khôi phục lại các khu rừng. Đó là một ví dụ thể hiện sự khôn ngoan đáng phục.
 
Với độ lùi của thời gian và tính đến tần suất xuất hiện của các hiện tượng thiên nhiên (bão, động đất, lũ lụt, núi lửa) mà Philippines gánh chịu, nhân dân nước này có lẽ đã cảm thấy nhẹ nhõm phần nào vì nhà máy điện hạt nhân Bataan (620 MW) xây xong năm 1986 nhưng không được phép chạy. Chính phủ vào thời đó đã có một quyết định hết sức sáng suốt, biết hi sinh lò phản ứng công suất lớn đầu tiên, vì lí do gần điểm đứt gãy địa chất và núi lửa hoạt động. Nhà máy này, không hề sản xuất một kWh nào, đã tiêu tốn 2,3 tỉ đô la.
 
Cơn bão Haiyan, khi thay đổi đột ngột đường đi của nó và giảm vận tốc gió xuống còn 120-130 km/h, đã yếu dần, khi đổ bộ vào Việt Nam. Sự may mắn đó khó lặp lại nhiều lần. Làm thế nào để đất nước ta có thể đối mặt với một thảm họa như ở Philippines? Vì lí do an toàn, nhà chức trách đã di chuyển hơn 600.000 người. Nhưng một sự di tản lớn hơn không phải là không thể xảy ra trong lần báo động khác.
 
Những trận lụt kinh hoàng vào tháng 11/2013 vừa tàn phá miền Trung Việt Nam có nguy cơ sớm trở lại và đặt dân chúng vào tình thế hết sức nguy hiểm. Ở đây, sự phá rừng đã làm tình hình thêm trầm trọng.
 
Đầu tháng 12 cùng năm nay, đường phố của nhiều khu dân cư ở TP HCM đã biến thành sông, do vỡ đê. Điều chưa từng thấy trong vòng 60 năm.qua. Cũng như tại Hà Nội và nhiều thành phố khác, những cảnh tệ hại này sẽ lặp lại khi mưa lớn. Chiến lược khả dĩ nào để đối đầu với thảm cảnh hằng năm này và để giảm thiểu những hậu quả tai hại đó ?
 
Chính quyền cũng lo ngại cho sự an toàn của 1200 hồ chứa và đập trong tổng số hàng ngàn cái hiện nay. Mỗi năm hơn chục cơn bão và lũ lớn làm khổ miền Trung Việt Nam. Tần suất xuất hiện và cường độ của chúng tiếp tục tăng, ngày càng đe dọa đồng bào khu vực này, vốn khó khăn về kinh tế hơn miền Bắc và miền Nam.
 
Người dân lo ngại và phản đối mạnh về việc xả nước đồng thời của hàng chục đập đầu nguồn, điều này đã làm tăng lưu lượng nước một cách nguy hiểm ở hạ lưu, gây nên nhiều thương vong và làm hư hại mùa màng cũng như hàng ngàn ngôi nhà. Ta có thể tính lưu lượng này một cách nhanh chóng như sau : Q=VS (Q theo m3/s, V theo m/s và S theo m2). 
 
Tại sao phải xây dựng cấp tốc các đập như thế ? Liệu việc hoạch định các công trình thủy điện trong hệ thống điện quốc gia có được thực hiện đúng phương pháp khoa học và đáng tin cậy không? Nhà nước vừa từ chối cấp phép cho việc thực hiện 424 dự án. Đây là thời điểm quan trọng để lập lại trật tự trong lĩnh vực này.
 
Về Điện hạt nhân, tôi hi vọng rằng chính phủ, để khỏi bị ảnh hưởng trực tiếp các thảm họa thiên nhiên kinh khủng nối tiếp nhau, tuyên bố từ bỏ ngay một chương trình quá tham vọng và tốn kém trước khi quá muộn. Chương trình này dự kiến lắp đặt 14 lò phản ứng (1000 đến 1500 MW) từ 2014 đến 2030 tại 5 tỉnh miền Trung Việt Nam, một vùng có rủi ro hết sức cao và diện tích quá eo hẹp. Các chuyên gia đề nghị những địa điểm này có lẽ không hề nghĩ đến những cơn gió bão có thể lên đến 350 km/h ?
 
Nếu ta muốn khiêu khích tạo hóa, một hai cứ xây dựng những nhà máy Điện hạt nhân này, chính phủ sẽ phải lên kế hoạch di tản hàng triệu dân ở miền Trung Việt Nam (đặc biệt là các tỉnh Ninh Thuận, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và Hà Tĩnh). Đồng bào sẽ sống trong sự sợ hãi của ba đe dọa thường trực : bão, lũ, phóng xạ, chưa kể động đất hay sóng thần!
 
Sự nóng lên của khí hậu đặt ra rất nhiều nguy cơ và vấn đề an toàn, trong thời gian xây dựng (5 đến 7 năm) các nhà máy, cũng như trọn thời gian khai thác (40 đến 50 năm). Hàng chục và sau đó là hàng trăm tỷ đô la đầu tư cho chương trình hạt nhân này sẽ có ích lợi xã hội hơn, nếu dùng một phần lớn cho kế hoạch thích nghi với biến đổi khí hậu của đất nước ! Việt Nam phải dựa trên sức mình trước, bởi sự đóng góp của các quốc gia giàu mạnh quá nhỏ, nếu xét đến số lượng những nước cần được hỗ trợ.
 
Khi xảy ra trận lũ ngày 29/12/1999, Pháp suýt phải chịu một thảm họa lớn tại nhà máy Blayais của EDF (4 lò 900 MW) nằm bên phải của cửa sông Gironde, cách Bordeaux 60 km. Các máy bơm và hệ thống an toàn bị ngập do nước dâng lên đột ngột.
 
Thật là sai lầm khi cho rằng hạt nhân có thể cứu được trái đất khỏi sự nóng lên của thời tiết. Thực ra, hạt nhân, trên đà suy thoái ngay cả trước thảm họa Fukushima, vào năm 2011 chỉ còn chiếm 11,7% tổng năng lượng điện thế giới (67,9% từ than, dầu mỏ, khí đốt – 16,3% thủy điện – 4,1% năng lượng mặt trời, gió, sinh khối). So với năng lượng sơ cấp toàn cầu, nó chỉ chiếm dưới 6%, trong đó chỉ một phần ba chuyển thành điện hạt nhân. Hai phần ba còn lại bị mất đi dưới dạng nhiệt, đó là điều đã gây nên những tổn thất cho môi trường.
 
Điện hạt nhân không phải là năng lượng sơ cấp. Đó là một sự lạm dụng ngôn ngữ, bởi nó là năng lượng thứ cấp thông qua biến đổi như điện phát ra từ dầu mỏ, khí hay than. Cần phải phân biệt năng lượng cuối cùng, sơ cấp, thứ cấp, có ích và phải biết sử dụng hệ số chuyển đổi tốt. Nếu không, trong bản tổng kết năng lượng quốc gia ta có nguy cơ tính nhầm với các thống kê sai.
 
Khác với những lời tuyên truyền không đúng sự thật, lượng khí CO2 thải ra trong toàn bộ các khâu của quá trình hạt nhân không phải thấp!
 
Từ đầu đến cuối : khai thác mỏ, vận chuyển uranium từ nước ngoài đến tận nhà máy chế biến, tạo ra vật liệu với các thành phần khác nhau, công trường xây dựng của nhà máy (xi măng, thép), chu kì của nhiên liệu, khai thác, tháo gỡ, tái xử lý, quản lý chất thải...Tổng lượng cacbon khó mà bỏ qua được !
 
 Nếu tính đến kinh phí đầu tư cần thiết cho sự tăng cường liên tục về an toàn, giá thành quá cao cho việc tháo gỡ nhà máy, cũng như việc quản lý lâu dài các chất thải phóng xạ và tổn thất gây ra bởi thảm họa, giá kWh hạt nhân trên thực tế khó cạnh tranh được với năng lượng cổ điển hay tái tạo !
 
Vì những lý do công nghệ, kinh tế và thời gian sản xuất, không thể nào nhân đôi số lượng lò phản ứng trên thế giới từ đây đến 2030 (hiện nay có khoảng 440 lò). Ngay cả với sự nhân đôi như vậy, đóng góp của điện hạt nhân trong tổng số năng lượng toàn cầu vẫn luôn không đáng kể.
 
Hạt nhân quá nguy hiểm và phản kinh tế !
 
Tóm lại, để đối mặt với đe dọa khí hậu, Việt Nam cũng như tất cả các nước trên thế giới, không có lựa chọn chiến lược nào khác ngoài việc khai thác triệt để ngay từ bây giờ các nguồn năng lượng tái tạo, khuyến khích hiệu suất năng lượng và tiết kiệm năng lượng.
 
Chúng ta không nên vội quên một kết luận hết sức quan trọng (tuy khó thực hiện) của Liên hiệp quốc: đầu tháng 5/2011, bản báo cáo của 120 chuyên gia hợp tác với GIEC đã tuyên bố rằng đến 2050, nếu tất cả các nước đều quyết tâm, thì năng lượng tái tạo có thể chiếm gần 80% của nhu cầu năng lượng thế giới! Trong năm 2012, trên 250 tỷ đô la đã được đầu tư vào lĩnh vực then chốt này.
 
Việt Nam không nên lỡ chuyến tàu của cuộc cách mạng năng lượng đã bắt đầu lăn bánh trên đường rầy.
 
Sử dụng năng lượng tái tạo, giảm CO2 để bảo vệ môi truờng cho những thế hệ con cháu sau này, tức là chuyển hướng dần dần đến một nền kinh tế thiết thực (Jacques Attali, Groupe de réflexion sur l'économie positive), không chạy theo tăng trưởng PIB một cách mù quáng mà phải coi trọng chất lượng và sự lâu bền hơn là chỉ biết thừa hành dưới áp lực của sự độc tài ngắn hạn ( dictature du court terme ).
 
Đối mặt với đe dọa khí hậu, chúng ta phải hành động ngày hôm nay, ngày mai sẽ quá muộn!
 
Grenoble 11-12-2013
Nguyễn khắc Nhẫn,
Nguyên Giám đốc Trường Cao đẳng Điện học và Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật Phú Thọ
Cố vấn Nha kinh tế, dự báo, chiến lược EDF Paris,
GS Viện kinh tế, chính sách năng lượng Grenoble,
GS Trường Đại học Bách khoa Grenoble.