Wednesday, February 8, 2012

ARE THERE EMOTIONAL AND FAMILY TIES BETWEEN VIETNAM AND THE UNITED STATES?

From 1954 to 1975, Vietnam was partitioned into North and South along ideological differences. North Vietnam was ruled by a totalitarian communist regime firmly supported by a militarily strong Soviet Union and a populous Red China. South Vietnam adopted a Western-styled
republic.

Right from the start, in 1954 North Vietnam had a large army with 240,000 regulars and more than one million militiamen, equipped, trained, and buttressed by the two leading countries of the communist world--the Soviet Union and Red China, with an express aim to conquer
militarily South Vietnam, as part of an overarching plan to stain and taint the world red with Communism. Meanwhile South Vietnam's republican government presided over a nascent army equipped and trained by the United States. The peace enjoyed by the people in South Vietnam after the partition was brief. Soon the people found themselves sucked into a civil war initiated by North Vietnam. In order to stop the spread of Communism in Southeast Asia, the United
States gave military and economic assistance to South Vietnam in its fight against the divisions of the regular army of North Vietnam sent to the south and against the guerrillas put in place by North Vietnam.

The civil war was never between the forces of equal strength. North Vietnam enjoyed unstinted and committed support from the communist world while the assistance provided by the United States and its allies was hampered by pro-communist and misguided anti-war elements . Not long after the U.S. Congress had voted to discontinue aid to South Vietnam, the war ended with the triumph of the Vietnamese communists.

Recent disclosures (see Henry Kissinger's On China, Penguin Press, 2011) have indicated that the U.S. was willing to leave Vietnam as part of the secret negotiations to establish diplomatic relations with China for establishing trade between the two countries and for forming a quasi-alliance to stop the expansionist policies of the Soviet Union.

The following figures are some of the economic and human costs of the war:
The monetary aid provided to South Vietnam by the United States during the war amounted to 26 billion dollars, including $16 billion for military and $6 billion for economic assistance. The total war costs for the U.S. came up to $900 billion, three times of its expenditures in World War Two. There were no published figures from the communist side, but estimates ranged in hundreds of billions of U.S. dollars.

The human casualties were simply staggering:
Vietnam: of course, bore the heaviest casualties. Out of the total population of 24 million in 1954 and 49 million in 1975,almost 6 million (1,500,000 military personnel and 4,500,000 civilians) weredead or wounded – 1/8 of Vietnam’s population in 1975.
North Vietnam:1,100,000 military personnel dead or missing, 600,000 military personnel wounded, 2,000,000 civilians dead or wounded.
South Vietnam: 320,000 military personnel dead or missing, 1,200,000 military personnel wounded, 2,000,000 civilians dead or wounded.

South Vietnam's Allies:
The United States: 58,200 dead, 1,900 missing, 300,000 wounded.
South Korea: 5,000 dead, 11,000 wounded.
The Philippines: 552 dead.
Australia: 426 dead, 1360 wounded.
Thailand: 351 dead, 1,200 wounded.
New Zealand: 55 dead, 212 wounded.

Once again, there were no figures available for human casualties for North Vietnam's communist allies : The Soviet Union, China, The Eastern European countries, North Korea, Cuba..., specially The Soviet Union and China.

Next to Vietnam, the United States was the country most impacted by the Vietnam War. Besides the 58,200 dead, 1,900 missing, and 300,000 wounded, it was estimated that up to 5 million
Americans of the ages between 20-40 did the active military services among about 6 million personnel served their tour of duty in Vietnam during the war. Thus, this could be stated that about 6 million American families did have direct connections with Vietnam, a country at that time they knew very little about.

Thirty-seven years after the war ended, these 6 million Americans and the 1.5 million Vietnamese who fled Vietnam and settled in the U.S. have probably multiplied to 10-15 million strong out of the total population of 313 million. It is not far-fetched to assume most of these 10-15 million people regard Vietnam with nostalgia and the 85 million Vietnamese living in Vietnam with affection. Among those, a number of them are holding positions of authority in the armed forces and federal government (for instance, Senators John McCain, John Kerry, Congressman Chris Smith,..).

The Vietnamese have a tradition of taking care of their kin and kind, no matter how far away they are. The Vietnamese-Americans have upheld that tradition. Every year they have remitted tens of billions of $U.S. dollars to help their relatives and friends in Vietnam despite of the fact that they had been severely mistreated by the Vietnamese Communist Party and its government , stripped off their assets, expelled from their homes and persecuted to the point millions of them had to flee Vietnam by walking across land to reach Thailand, and taking to sea in small and unseaworthy boats to seek freedom, resulting in more than a million of them perished at sea or at
the hands of the Thai pirates.

Up to now, the tie between Vietnam and the U.S. is mostly based on individual blood ties and emotional attachment. The totalitarian, single party, corrupt, nepotism-laden, communist system of government in Vietnam has prevented the tie from deepening and flourishing

Once Vietnam restores full democracy, there is no reason why those 15 million strong American “relatives” together with more than 3 million Vietnamese expatriates in the U.S. and other countries such as Canada, France, Germany, Australia, and New Zealand and their host sympathizers will have no compelling reasons to rebuild Vietnam and assist in its fight to
thwart China's efforts to take over Vietnam! The recent signs and activities from the American people (statement of Senator John McCain in his visit to Vietnam on 19 Jan 2012) and authorities (Assistant U.S. State Secretary Kurk Campell’s visit to Vietnam on 02 Feb 2012 as well as pronouncement of U.S. State Secretary Hilary Clinton and the despatch of US naval vessels into South China Sea before) in response to China’s actions in South China Sea show this “family tie” sentiment.

The only route Vietnam must take is to transform itself into a multi-party system democracy with due respect to freedom and basic human rights. Only then, corruptions, abuses of power by public figures and factionalism which are rampant within the Vietnamese Communist Party are stamped out. Only then, the strong “emotional and family ties” between Americans, as well as other nationals, and the Vietnamese from inside Vietnam and all over the world will be fully enhanced and utilized.

Only then, Vietnam will be free, its economy thriving, its people prosperous, and China’s territorial expansionist ambitions against Vietnam will be stopped.

February 04, 2012
Hung Nguyen, Quang Long Le, Khoa Ba Ngo

VIỆT NAM VÀ HOA KỲ CÙNG LÀ “NGƯỜI THÂN”?


VIỆT NAM VÀ HOA KỲ CÙNG LÀ “NGƯỜI THÂN”?

Trong thời gian hơn hai mươi năm đất nước Việt Nam bị chia cắt vì hai chủ thuyết tư bản và cộng sản. Từ năm 1954 đến năm 1975, miền Bắc theo Chủ Nghĩa Cộng Sản độc đảng chuyên chế dưới sư trợ giúp tối đa của cường quốc cộng sản Liên Xô với sức mạnh vũ khí và của Trung Cộng với sức mạnh nhân số, miền Nam được chuyển đổi từ chế độ quân chủ sang chế độ Cộng Hòa pháp trị.

Ngay tại thời điểm năm 1954, lực lượng quân đội tại miền Bắc đã rất đông với hàng trăm ngàn quân lính (240.000 lính chính qui và hơn một triệu quân bán chính qui)* và được hai nước cộng sản lãnh đạo đàn anh, Liên Xô và Trung Quốc, cung cấp đầy đủ về các mặt quân cụ, hậu cần và kinh tế để tiến hành cuộc chiến chinh phục Miền Nam, chủ tâm thực hiện chế độ cộng sản chuyên chính trên toàn lãnh thổ Việt Nam bằng vũ lực, trong đại kế hoạch nhuộm đỏ toàn thế giới của cộng sản quốc tế.

Trong khi đó miền Nam Việt Nam vừa bắt đầu xây dựng một thể chế tự do dân chủ theo phương cách của các chế độ tư sản và đa đảng trên thế giới, chỉ có một lực lượng quân đội non trẻ và được
Hoa Kỳ trợ giúp nhằm khả dĩ có đủ sức mạnh quân sự để bảo vệ nền cộng hòa. Thời gian miền Nam được sống thực sự trong hòa bình để xây dựng đất nước thật rất ngắn ngủi và có thể nói rằng không có được bao nhiêu ngày, nhưng phải lập tức hứng chịu cuộc chiến tranh quốc cộng đẫm máu. Để ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản tại vùng Đông Nam Á và Châu Á, Hoa Kỳ đã chủ động giúp đỡ miền Nam Việt Nam về quân sự và kinh tế để có đủ khả năng chống lại lực lượng quân đội chính qui hùng hậu xâm nhập từ miền Bắc Việt Nam và lực lượng du kích
cài lại tại Miền Nam.

Thay vì để cho hai miền Nam-Bắc cùng sống chung và phát triển trong hoà bình, thành phần lãnh đạo đảng Cộng Sản tại miền Bắc đã quyết tâm sẵn sàng hy sinh tất cả, kể cả sinh mạng của toàn
dân, cùng với sự chu cấp không giới hạn toàn bộ vũ khí, quân dụng và hậu cần từ khối cộng sản toàn cầu mà chính yếu từ Liên Xô và Trung Cộng, để đánh chiếm toàn Miền Nam.

Trong tình trạng đó, miền Nam phải chống đỡ một cuộc chiến không cân sức. Trợ giúp của Hoa Kỳ và quốc tế càng lúc càng giảm, và cuối cùng thì bị cắt đứt toàn bộ. Hoa Kỳ phải chấm dứt tham
chiến và ngưng viện trợ quân sự cho Miền Nam Việt Nam do áp lực của các thế lực thiên cộng và phản chiến mù quáng tại Mỹ và các nước. Cuộc nội chiến không cânsức Bắc Nam đã chấm dứt với thắng lợi đương nhiên của chế độ cộng sản tại Miền Bắc.

Tài liệu tiết lộ gần đây cho biết sau khi đã thương lượng và tái lập được bang giao với Bắc kinh, Mỹ đã thoả thuận ngầm với Trung Cộng rời bỏ Miền Nam Việt để được lợi ích nhiều hơn về cảsự hợp tác kinh tế với Bắc Kinh và sách lược đối đầu với khối cộng sản Liên Xô.

Trong thời gian 1954 -1975 Hoa Kỳ đã viện trợ cho Miền Nam Việt Nam tổng cộng khoảng 26 tỷ USD, trong đó viện trợ quân sự 16 tỷ USD, viện trợ kinh tế khoảng 6 Tỷ USD. Tổng số chi phí cho cuộc chiến tại Việt Nam mà Hoa Kỳ phải gánh chịu lên đến hơn 900 tỷ USD, gấp hơn 3
lần so với chi phí của Hoa Kỳ cho thế chiến thứ 2. Chi phí của các nước trong khối cộng sản cũng rất cao, tuy họ không chính thức công bố nhưng cũng lên đến hằng trăm tỷ USD.**

Về sinh mạng: Riêng Việt Nam, tổng số thương vong lên đến gần 6 triệu người, khoảng 1/8 dân số của hai Miền Nam Bắc Việt Nam tại thời điểm năm 1975 (năm 1954: 24 triệu, 1975: 49 triệu), có khoảng 1 triệu 500 ngàn quân nhân Việt Nam của hai phía bị tử trận và hơn 4 triệu thượng dân bị chết hoặc bị thương; trong đó miền Bắc: 1,1 triệu quân nhân bị tử trận và mất tích, 600.000 quân nhân bị thưong, và khoảng 2 triêu thường dân chết và bị thương; miền Nam: 320,000 quân nhân tử trận và mất tích, 1,2 triệu quân nhân bị thương, và 2 triệu thường dân chết và bị thương.

Các lực lượng quân đội nước ngoài tham chiến tại Việt Nam bị tổn thất cao nhất là Hoa Kỳ với 58.200 quân nhân tử trận,1900 mất tích, và khoảng 300.000 quân nhân bị thương; kế đến Nam Hàn với 5.000 quân nhân tử trận, 11.000 bị thương; Phi Luật Tân với 552 quân nhân tử
trận; Úc với 426 quân nhân tử trận và 1360 bị thương; Thái Lan với 351 quân nhân tử trận và 1200 bị thương;Tân Tây Lan với 55 quân nhân tử trận và 212 bị thương. Trong khối cộng sản tham chiến tại Việt Nam có Trung Cộng, Liên Xô, Bắc Hàn, các nước cộng sản tại Đông Âu với số tử trận và thương vong tuy không được công bố chính thức nhưng cũng đáng kể, nhất là Trung Quốc và Liên Xô.**

Hoa Kỳ là nước trực tiếp tham chiến cùng với quân đội và dân chúng miền Nam Việt Nam và là quốc gia bị thiệt hại về nhân mạng cao nhất ngoài Việt Nam. Không chỉ với 58.200 quân nhân tử
trận mà nó liên hệ đến gần 5 triệu lượt thanh niên trong lứa tuổi 20 - 40 đã trực tiếp chiến đấu trong tổng số hơn 6 triệu người Mỹ tham gia chung vào cuộc chiến ngăn chặn chế độ cộng sản bành trướng tại Miền Nam Việt Nam. Như vậy có thể nói rằng từ 5 đến 6 triệu gia đình người Mỹ đã trực tiếp liên hệ đến Việt Nam, một đất nước trước đó thật xa lạ đối với đa số người dân Mỹ bình thường.

Sau 37 năm tính từ năm 1975, con số khoảng 6 triệu gia đình người Mỹ có liên hệ trực tiếp (có người thân chiến đấu, hy sinh và bị thương vong hay có liên hệ gia đình vợ chồng) và có nhiều kỷ
niệm với Việt Nam. Bên cạnh đó là khoảng hơn 1.5 triệu người Việt và gia đình họ đã phải rời khỏi Việt Nam đến lánh nạn và lập nghiệp tại quốc gia này sinh sản thêm. Nếu chỉ nhân 2 hay 3 (số 7 hay 8 triệu người này lập gia đình và sinh sản thêm trong thời gian 37 năm) thì đến hôm nay con số người tại Mỹ có mối liên hệ tình thân và tình thâm “ruột thịt” trực tiếp với Việt Nam có thể lên
đến con số khoảng từ 10 đến 15 triệu người, trong tổng số khoảng 300 triệu người dân Hoa Kỳ.

Hiện nay, với khoảng 15 triệu dân Mỹ chính thống và người tỵ nạn Việt Nam tại Mỹ cùng với con cháu Mỹ-Việt của họ sẵn có mối tình thân, tình thâm “ruột thịt” với 85 triệu dân Việt của nước Việt
Nam, có thể kết luận rằng: Việt Nam và Hoa Kỳ cùng là “người thân”! Đây là một mối thâm tình “ruột thịt” đặc biệt có được giữa hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ.Trong số những quân nhân và chuyên viên trẻ Hoa Kỳ đã từng sát cánh chiến đấu với quân đội Miền Nam Việt Nam cách đây hơn 30 năm, nhiều vị đang nắm giữ các chức vụ và công tác quan trọng trong quân đội và các bang ngành dân sự. Họ hầu hết có cảm tình đặc biệt với dân chúng Miền Nam Việt Nam (Việt Nam Cộng Hòa).

Với bản chất “nhiễu điều phủ lấy giá gương” ngàn đời cùa người dân Việt, một khi ai đó trong gia đình gặp khó khăn cả về vật chất lẫn tinh thần thì chính những người thân “ruột thịt” sẽ là người đầu tiên đứng ra hết lòng giúp đỡ, bảo vệ cho người thân của mình. Vì tình thân, tình thâm “ruột thịt” mà trong hơn ba mươi năm qua người Việt tại nước ngoài đã liên tục chia sẻ chắt chiu và cưu
mang người thân nghèo khổ của mình tại trong nước mỗi năm với số tiền hằng chục tỷ USD, tuy rằng trước kia họ đã từng bị đảng và chính quyền cộng sản Việt Nam ngược đãi, bị tước đoạt tài sản, bị xua đuổi khỏi quê hương, và phải chịu nhiều tan thương và chết chóc lên đến cả triệu người trên con đường vượt biển vượt biên tỵ nạn tìm tự do.

Cho đến hôm nay, sự đùm bọc trong tình thâm “ruột thịt” giữa Hoa Kỳ và Việt Nam chỉ giới hạn trong việc hỗ trợ tài chánh có tính cách cá nhân vì bức tường ý thức hệ ngoại lai “cộng sản” do
chính chế độ cộng sản hiện nay tại Việt Nam dựng ra.

Khi điều kiện tự do và dân chủ tại Việt Nam được phục hồi đầy đủ thì làm sao khoảng 10-15 triệu thân nhân “ruột thịt” người Mỹ và chừng 3 triệu người Việt tại Hoa Kỳ cùng khoảng 2 triệu
người Việt Nam và thân nhân “ruột thịt” tại các nước tự do khác như Canada, Anh, Úc, Pháp, Đức,Tân Tây Lan... không cùng 85 triệu dân Việt trong nước chung sức xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam trước nguy cơ xâm lược từ kẻ thù phương Bắc? Những dấu hiệu và hành động phát xuất từ nhân dân và chánh quyền Hoa Kỳ với Việt Nam trong thời gian gần đây trước những hành động xâm lược trắng trợn của bá quyền Trung Cộng đã một phần minh xác mối thâm tình “ruột
thịt” này.***

Do đó chỉ có một con đường duy nhất là chế độ chính trị hiện nay tại Việt Nam phải nhanh chóng được thay đồi từ một chế độ cộng sản chuyên quyền độc tài đảng trị sang một chế độ thật sự tự
do dân chủ, đa nguyên đa đảng, trong đó mọi đảng phái chính trị, mọi người dân đều được đối xử bình đẳng không phân biệt quá khứ hay chính kiến. Khi đó guồng máy điều hành quốc gia mới đuợc chính trực, quốc nạn bè phái lộng quyền, kiêu binh bất trị của đảng viên đảng cộng sản Việt Nam hiện nay mới bị tiêu diệt tậngốc.**** Có như vậy thì mối tình thân và thâm tình “ruột thịt” giữa người Việt Nam trong và ngoài nước, tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác trên thế giới, mới được
phát huy và tận dụng. Và khi đó đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta mới nhanh chóng được hoàn toàn tự do, kinh tế được phát triển thực sự và nhanhchóng, và ý đồ xâm lược của kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam, Trung Cộng, mới bị triệt tiêu.

Ngày 04 tháng 02 năm 2012
Nguyễn Hùng, Lê Quang Long, Ngô Khoa Bá