Tuesday, December 14, 2021

Nhiễu và thiên kiến: những bản án ở Việt Nam . Nguyễn Văn tuấn

 Nhiễu và thiên kiến: những bản án ở Việt Nam

Nguyễn Tuấn 


Hôm qua, cô Phạm Đoan Trang (một cựu nhà báo) bị tuyên phạt 9 năm tù giam vì tội danh “Tuyên truyền chống Nhà nước”. Trước đó một ngày, ông Nguyễn Đức Chung (cựu bí thư Hà Nội) bị tuyên phạt 5 năm tù vì tội danh “Chiếm đoạt tài liệu bí mật nhà nước”. Bản án dành cho ông cựu bí thư còn thấp hơn bản án 7 năm tù dành cho một người ăn trộm 1 con vịt ở Kiên Giang. Những khác biệt đó chỉ có thể mô tả là 'nhiễu', và những cái nhiễu này còn gây ra nhiều đau khổ cho người dân.
1. Nhiễu
Điểm qua những nạn nhân của bản án 'Tuyên truyền chống Nhà nước', tôi thấy án phạt thường dao động trong khoảng 4 đến 12 năm tù, với trung bình chừng 7 năm. Phạm Đoan Trang bị tuyên phạt đến 9 năm tù giam, tức là thuộc vào nhóm 'cao cấp'. Trong nhóm cao cấp này có Tạ Phong Tần, Mẹ Nấm, và người bị phạt tù lâu năm nhứt là Điếu Cày.
Ls Nguyễn Văn Đài: 4 năm
Ls Lê Thị Công Nhân: 4 năm
Phạm Thanh Nghiên: 4 năm
Phan Thanh Hải: 4 năm
Ls Lê Công Định: 5 năm
Nguyễn Viết Dũng: 6 năm
Nguyễn Xuân Nghĩa: 6 năm
Cù Huy Hà Vũ: 7 năm
Lm Nguyễn Văn Lý: 8 năm
Trần Thị Tuyết Diệu: 8 năm
Phạm Đoan Trang: 9 năm
Tạ Phong Tần: 10 năm
Nguyễn Ngọc Như Quỳnh: 10 năm tù
Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày): 12 năm
Tại sao mức độ phạt tù lại dao động khá lớn giữa các nạn nhân có cùng tội danh? Dĩ nhiên là tuỳ vào bối cảnh và tình tiết của mỗi trường hợp. Có khi người ta chịu 'tội' thì có thể được xử nhẹ hơn những người bác bỏ [tất cả các cáo trạng] như Phạm Đoan Trang.
Nhưng trong thực tế, tôi nghĩ còn có yếu tố nhiễu (noise). Nhiễu ở đây hiểu theo nghĩa của cuốn sách mà tôi mới điểm qua trước đây [1]. Trong sách, tác giả lấy một ví dụ về án phạt để minh hoạ cho định nghĩa về nhiễu. Hai người [không có tiền sử tội phạm] dùng tiền giả, một người dùng tiền giả trị giá 58.4 USD bị phạt 15 năm tù; còn người dùng tiền giả trị giá 35.2 USD bị phạt tù 30 ngày. Một trường hợp so sánh khác cũng thú vị không kém: hai người cùng phạm tội biển thủ với số tiền tương đương nhau, nhưng người thì bị phạt 17 ngày tù, còn người kia thì 20 năm tù.
Tác giả gọi đó là 'nhiễu' trong phán xét. Nhiễu là những SAI SÓT của con người hay phương tiện. Nhiễu thường mang tính ngẫu nhiên, tức không tuân theo qui luật nào cả, và do đó chúng ta không thể tiên đoán được. Nhưng nhiễu ở Việt Nam thì có vẻ không phải là ngẫu nhiên.
Chẳng hạn như cái tội danh 'Tuyên truyền chống Nhà nước' đối với cô Đoan Trang có cái gì đó không thuyết phục. Cô ấy đơn giản là một nhà báo, nhưng khác với nhiều đồng nghiệp khác, cô ấy là một nhà báo có trăn trở với hiện tình đất nước, và muốn dùng kiến thức của mình để đóng góp cho việc khai phóng xã hội. Những gì cô ấy viết đều phản ảnh rất rõ chủ trương đó. Những gì cô ấy viết nằm trong quyền mà Hiến pháp Việt Nam qui định ở Điều 25: "Công dân có quyền tự do chính kiến và biểu đạt, [và] tự do báo chí."
Thế nhưng cũng cái Bộ luật hình sự thì lại qui định: "tuyên truyền, xuyên tạc và bôi nhọ chính quyền nhân dân" là một tội ác! Vậy là sao? Công dân có quyền phát biểu chánh kiến của mình, tức là kể cả việc phê phán nhà cầm quyền, nhưng lại cấu thành là 'Tuyên truyền chống Nhà nước'! Cô ấy viết gì? Thật ra, cô Đoan Trang viết về thảm họa sinh vật biển (xảy ra ở Vũng Áng), cô ấy viết về chuyện nhân quyền và luật tín ngưỡng và tôn giáo. Khách quan mà nói những bài đó chẳng có gì để gọi là 'Chống Nhà nước'.
Bản án đó phải xem là một nhiễu vậy.
2. Bias (thiên kiến)
Bên cạnh nhiễu, còn có bias (sự thiên lệch) có thể giải thích tại sao cùng một bản án mà mức độ phạt thì khác nhau. Trong tâm lí học, bias là thiên kiến đối với một cá nhân hay sự việc. Một loại thiên kiến quan trọng trong tâm lí học là cognitive bias (thiên kiến về nhận thức), là sự thiên lệch chống lại một cá nhân, một nhóm người, sự vật, và thường thường là không công bằng. Chẳng hạn như người ta có xu hướng sàng lọc thông tin sao cho phù hợp với niềm tin của họ. Do đó, thiên kiến là sản phẩm của bản chất con người, nhưng nó có thể ảnh hưởng đến các quyết định của con người.
Tôi nghĩ rằng đa số các vụ án dành cho các tù nhân lương tâm ở Việt Nam là do thiên kiến hơn là do nhiễu. Trong một xã hội mà người dân chỉ được tiếp nhận thông tin 1 chiều từ 1 nguồn, thì làm sao người ta không bị ảnh hưởng bởi thiên kiến. Trong cái môi trường được nuôi dưỡng bằng những thông tin như thế thì những người như Đoan Trang là cái 'gai' trong mắt của nhiều người.
Hết ngày này sang ngày nọ, đa số công chúng được gieo vào những niềm tin rằng nói khác với quan điểm của đảng và Nhà nước là 'phản động', mà phản động là đồng nghĩa với tù đày thì theo thời gian nó sẽ trở thành một chuẩn mực. Chuẩn mực là không được nói khác Nhà nước. Chuẩn mực là phải im lặng. Theo đó, những ai nói khác hay lên tiếng trước những bất công xã hội thì bị xem là 'phản động', là tội phạm.
Ông cựu bí thư Hà Nội làm thất thoát rất nhiều tiền của dân, nhưng nhận một bản án có thể nói là ... nhẹ hều: “Chiếm đoạt tài liệu bí mật nhà nước”. Hình phạt dành cho ông cũng nhẹ hều: 5 năm tù. Cô Đoan Trang chẳng làm thất thoát một xu nào của Nhà nước và dân; ngược lại, cô ấy đóng góp vào việc nâng cao dân trí. Nhưng cô lãnh cái án phạt 9 năm tù! Dĩ nhiên, có nhiều khác biệt giữa 2 trường hợp, nhưng tôi nghĩ đến thiên kiến: một bên là người của đảng, còn một bên là thường dân.
Thiên kiến cũng giải thích tại sao có những yếu tố như 'có công với cách mạng' trong các phiên toà. Người có công với cách mạng được xử nhẹ hơn người khác. Một ví dụ minh hoạ tiêu biểu là vụ xử án ở Long An vài ngày qua. Câu chuyện là một nhóm người (khoảng 50 người) dưới sự cầm đầu của một người giàu có xông vào Thiền Am Bên Bờ Vũ Trụ, đập phá, và cướp đi hơn 300 triệu đồng. Nghiêm trọng hơn là một người phụ nữ trong nhóm côn đồ quăng một viên gạch bén nhọn thẳng vào mặt của một người trong Thiền Am và gây thương tích lên đến 13%. Phiên toà sơ thẩm tuyên phạt kẻ hành hung này 2 năm tù giam và 8.9 triệu đồng. Nhưng vài hôm trước, phiên toà phúc thẩm giảm hình phạt xuống còn 2 năm tù treo vì 'có công với cách mạng' và 'mẹ đơn thân'. Ngạc nhiên hơn, những người cầm đầu tổ chức cuộc tấn công vào Thiền Am thì ... vô tội!
Các bạn thử tưởng tượng một kẻ manh động có hành động nguy hiểm đến tánh mạng người ta mà gần như trắng án. Các bạn thử tưởng tượng những kẻ cầm đầu việc đập phá tấn công một cách có tổ chức vào gia trang người ta mà vô tội!
Điều quan trọng là chính phiên toà phúc thẩm này bác bỏ phiên toà trước đó mặc dù tình tiết và bằng chứng y chang nhau (không có chứng cớ mới). Phải xem đó là do nhiễu.
Vấn đề nhiễu và thiên kiến, như nói trên, cũng xảy ra ở các nước có nền tư pháp lâu đời như Mĩ. Nhưng hai yếu tố này có vẻ nặng nề hơn ở Việt Nam vì sự ảnh hưởng của chánh trị quá sâu đậm và mối quan hệ đường thẳng giữa hành pháp, lập pháp và tư pháp. Rất tiếc là chưa có ai làm những nghiên cứu khoa học để đánh giá sự ảnh hưởng của yếu tố nhiễu và thiên kiến đến những bản án ở Việt Nam trong thời gian qua, và đây là một thiếu sót vậy. Nhiễu và thiên kiến trong xử án làm xói mòn uy tín và niềm tin vào công lí ở Việt Nam.
Quay trở lại vụ án cô Phạm Đoan Trang, tôi nghĩ cô ấy đã chuẩn bị cho một bản án như thế và không kì vọng gì từ phiên toà đó vì biết rõ rằng chẳng có phiên toà nào mà không bị ảnh hưởng bởi thiên kiến chánh trị. Do đó, con số 9 năm tù dành cho cô ấy chỉ nói lên sự thiên kiến của hệ thống và là một thước đo sự dấn thân và trăn trở làm cho một xã hội tốt đẹp hơn.
Ông Nelson Mandela có một câu trong cuốn hồi kí của ông mà tôi rất thích là (dịch) khi một người bị tước đoạt quyền sống một cuộc sống mà người đó tin vào, người đó không có lựa chọn nào khác là trở thành một kẻ ngoài vòng pháp luật (“When a man is denied the right to live the life he believes in, he has no choice but to become an outlaw.”) Đoan Trang là một người như thế.

Saturday, December 4, 2021

Đặc điểm các phát ngôn của lãnh đạo Việt cộng - Nguyễn Văn Tuấn

 

Favourites 0atc58S0hicup4fgsm7airadu 
Đặc điểm các phát ngôn của lãnh đạo Việt Nam
Tôi thích học tiếng Việt và tiếng Anh, nên hay chú ý đến những phát ngôn của các vị gọi là 'lãnh đạo'. Theo dõi cách nói của giới lãnh đạo Việt Nam tôi thấy có những đặc điểm chung: sáo ngữ, khẩu hiệu, hành chánh hoá, thiếu thông tin, và chung chung. Lấy cảm hứng từ sách của CT, tôi thử phân tích 5 đặc điểm đó như sau.
Không biết thời nay thì sao, chớ vào thời tôi còn ở Việt Nam (tức cuối thập niên 70) thì giới lãnh đạo Việt Nam thường có những bài phát biểu rất dài. Tôi nhớ những ông như Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng có khi nói cả 2 tiếng đồng hồ. Thật ra, họ đọc thì đúng hơn. Tôi rất thán phục họ, vì không hiểu sao họ có văn hay chữ tốt thế, và có thể đứng một chỗ mà đọc suốt 120 phút! Tuy nhiên, sau 120 phút nghe, tôi không biết họ nói gì, chẳng nhớ họ nói gì. Nhưng sau này, khi ra nước ngoài tôi mới hiểu là có khi họ cũng không biết họ nói gì, chớ không phải lỗi ở tôi.
Chừng 20 năm qua, tôi thấy giới lãnh đạo trẻ hơn thì có tiến bộ. Họ không đọc những bài diễn văn dài như các vị tiền bối của họ. Họ cũng có những cách nói có thể xem là hay hơn các bậc tiền bối. Tuy nhiên, họ không để lại ấn tượng gì ở khán giả hay người nghe. Tôi tự hỏi là tại sao. Nghĩ một hồi, tôi nghĩ 5 đặc điểm sau đây có thể giải thích tại sao họ không để lại một câu wisdom này đáng chú ý.
Đặc điểm 1: Sáo ngữ
Người Việt chúng ta thích sáo ngữ và ví von, nên không ngạc nhiên khi thấy giới lãnh đạo cũng thế. Có khi họ còn nổi hứng đọc thơ như hàm ý chứng minh họ cũng nho nhã, văn vẻ như các bậc 'trí thức'. Ví dụ tiêu biểu cho đặc điểm này là bài nói chuyện nhân kỉ niệm 40 năm ngày kí Hiệp định Paris:
“Hiệp định Paris là đỉnh cao thắng lợi của mặt trận ngoại giao nước ta thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, là mốc son trong trang sử vàng của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam.”
Chú ý những mệnh đề 'mốc son', 'sử vàng', 'mặt trận ngoại giao', tất cả đều là những sáo ngữ. Mới đây lại có người còn đọc thơ Nguyễn Du và ví mình như con chuồn chuồn khi nhận chức!
Có một loại sáo ngữ khác là chúng mang tính tích cực nhưng không có ý nghĩa thực tế. Ví dụ như bài diễn văn nhân dịp kết thúc một đại hội đảng, có đoạn:
“Sau hơn 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa, tư duy lý luận về văn hóa của chúng ta đã có bước phát triển …. Nhiều phong trào văn hóa đem lại hiệu quả thiết thực. Truyền thống văn hóa gia đình, dòng họ, cộng đồng… được phát huy.”
Chúng ta chú ý thấy nào là 'phát triển', 'phát huy', 'hiệu quả thiết thực', nhưng vì chúng không có một dữ liệu cụ thể nào nên tất cả chỉ là sáo rỗng về ý nghĩa. Thật vậy, đọc xong đoạn phát biểu này chúng ta không thấy bất cứ một điểm cụ thể nào để nhớ hay để làm minh hoạ. Chẳng có một ý tưởng nào để đáng nhớ.
Một trong những sáo ngữ chúng ta hay thấy trong các bài phát biểu là “đánh giá cao”. Ví dụ như:
“tôi cám ơn và đánh giá cao bài phát biểu rất tốt đẹp của Ngài Thủ tướng Hà Lan”, “tôi đánh giá cao và chân thành cám ơn sự hỗ trợ của Chính phủ …”.
“Đánh giá cao” hình như là một thuật ngữ đặc thù của giới lãnh đạo trong khối XHCN chớ chẳng riêng gì Việt Nam. Thoạt đầu nghe qua 'đánh giá cao' thì cũng hay hay, nhưng nghĩ kĩ thì thấy câu này chẳng có ý nghĩa gì cả. Thế nào là đánh giá cao, cao cái gì? Tôi thấy nó là một sáo ngữ vô duyên và vô dụng.
Đặc điểm 2: Khẩu hiệu
Việt Nam là đất nước của khẩu hiệu. Đi đến đâu cũng thấy khẩu hiệu đầy đường. Khẩu hiệu xuất hiện ở mọi nơi và mọi lúc. Thành ra, không ngạc nhiên khi thấy rất nhiều bài nói chuyện và diễn văn của các lãnh đạo chỉ là những khẩu hiệu được lắp ráp vào với nhau.
Có những khẩu hiệu quá quen thuộc nên chẳng ai chất vấn tính chính xác của nó. Ví dụ như câu
“Trong niềm tự hào, chúng ta thành kính tưởng nhớ và bày tỏ lòng biết ơn vô hạn với Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại – vị lãnh tụ thiên tài, Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới …”
Có lẽ chẳng ai để ý đến chữ 'danh nhân văn hóa thế giới'. Nếu người bình thường phát biểu như thế thì chắc người ta cũng lắc đầu bỏ qua, nhưng lãnh đạo mà phát biểu như thế thì chẳng có gì sáng tạo, chỉ lặp lại những câu chữ đã có trước đây.
Một loại ngôn ngữ khẩu hiệu khác mang tính tự hào. Tự hào gần như là một 'đặc sản' của người Việt chúng ta và đặc biệt là của các vị lãnh đạo. Đi đâu cũng nghe họ nói về tự hào. Điều này cũng hiểu được, vì làm lãnh đạo thì phải gieo niềm tự hào vào người dân. Nhưng gieo không đúng chỗ và gieo mãi thì có thể trở thành phản tác dụng. Thử đọc bài diễn văn có đoạn:
“Chúng ta tự hào về đất nước Việt Nam anh hùng, nhân dân Việt Nam anh hùng, tự hào về những con người giản dị bằng những việc làm tốt của mình ở mọi lúc, mọi nơi đã góp phần làm nên vẻ đẹp văn hóa của con người Việt Nam, đất nước Việt Nam; góp phần quyết định để xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh.”
Tôi tự hỏi có cần quá nhiều tự hào như thế. Đất nước anh hùng, con người anh hùng, vẻ đẹp văn hoá, v.v. nhưng tại sao đất nước vẫn còn nghèo và phải 'ăn xin' hết nơi này đến nơi khác, con người vẫn còn đứng dưới hạng trung bình trên thế giới. Thay vì tự ru ngủ là anh hùng và giàu mạnh, tôi nghĩ lãnh đạo phải nói thẳng và nói thật là đất nước vẫn còn rất nghèo, tài nguyên chẳng có gì, và cả nước đang phải đương đầu với ngoại xâm.
Đặc điểm 3: Hành chánh hoá
Nếu chú ý kĩ chúng ta sẽ thấy phần lớn những bài nói chuyện, bài diễn văn các lãnh đạo đọc là họ nói với đảng viên, với quan chức, công nhân viên, với quân đội, v.v. Họ không hẳn nói với người dân. Do đó, họ thường mở đầu bằng những câu như "Thưa các đồng chí". Đồng chí trước rồi mới tới 'Đồng bào', hay có khi chẳng có 'Đồng bào' (chắc quên).
Bởi vì ưu tiên cho người cùng phe (đồng chí), nên ngôn ngữ của họ thường mang tính hành chánh. Có những chữ mà hình như họ sử dụng quá nhiều nên chẳng ai để ý đến ý nghĩa thật của nó, như:
“Trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đối ngoại phải tiếp tục là mặt trận quan trọng góp phần phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc.”
Đối với người dân bình thường, ít ai hiểu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế là cái gì. Có thể nói đó là những ngôn ngữ xa lạ đối với người dân.
Đặc điểm 4: Thiếu thông tin
Hậu quả của sáo ngữ, khẩu hiệu hoá và hành chánh hoá là sự mất mát về thông tin. Tiếng Anh gọi là 'Lack of information'. Người phương Tây thường hay hỏi với nhau kiểu như "Anh nói vậy có nghĩa là gì", hay "Rồi sao nữa? Cụ thể là gì?" Những câu phát ngôn của giới lãnh đạo Việt Nam thường không có thông tin. Chữ thì nhiều, những nghĩa thì không có. Nhiều người quen tính nói rất nhiều, nhưng nếu chịu khó xem xét kĩ chúng ta sẽ thấy họ chẳng nói gì cả.
“Chẳng nói” vì những gì họ nói ra không có thông tin, tất cả chỉ là những câu chữ lắp ráp vào nhau cho ra những câu văn chứ không có dữ liệu. Do đó, có khi đọc xong một đoạn văn chúng ta chẳng hiểu tác giả muốn nói gì. Chẳng hạn như phát biểu về hiến pháp, ông chủ tịch QH nói:
“Chúng tôi cũng hiểu rằng một bộ phận, một số người trong các tầng lớp nhân dân và ngay một số ĐBQH cũng còn ý kiến khác. Tuy nhiên tuyệt đại nhân dân và Quốc hội có thể khẳng định đã đồng tình cao với bản Hiến pháp thông qua lần này. Với quyền năng nhân dân trao cho Quốc hội, chúng ta đã thể hiện được đại đa số nguyện vọng của toàn dân, của Quốc hội với tinh thần làm chủ của nhân dân, chúng ta sẽ biểu quyết theo tinh thần đó.”
Câu cú và cấu trúc ý tưởng chẳng đâu vào đâu. Lúc thì quyền năng nhân dân trao cho Quốc hội, lúc thì nguyện vọng của toàn dân, của Quốc hội, lại còn đèo theo một câu 'tinh thần làm chủ của nhân dân'. Câu chữ cứ nhảy nhót loanh quanh, chẳng đâu vào đâu, và cuối cùng là chẳng ai hiểu ông ấy nói gì.
Đặc điểm 5: Chung chung
Nhiều người Việt chúng ta hay có cách nói chung chung, không nói gì cụ thể, nên ai muốn hiểu sao thì hiểu. Có khi họ nghĩ nói vậy là hay, là đa tầng, là thâm thuý. Thật ra, cách nói đó rất dở và nó làm người Việt khó hội nhập với thế giới phương Tây. Thành ra, không ngạc nhiên khi giới lãnh đạo không có khả năng nói cái gì cụ thể, tất cả chỉ chung chung. Ví dụ tiêu biểu là phát biểu:
“Đặc biệt là, tình hình Biển Đông hiện đang diễn biến rất phức tạp, nghiêm trọng, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải hết sức tỉnh táo, sáng suốt, tăng cường đoàn kết, cả nước một lòng, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.”
Đọc xong đoạn văn chúng ta chẳng có thông tin nào, mà tất cả chỉ là những rhetoric tầm thường, giống như những khẩu hiệu được nối kết với nhau.
Chúng ta cũng không có thêm thông tin, ngoại trừ một chữ rất chung chung là 'phức tạp'. Mệnh đề 'phức tạp' có thể nói là rất phổ biến ở Việt Nam, đụng đến cái gì họ không giải thích được, không mô tả cụ thể được, thì họ bèn thay thế bằng hai chữ 'phức tạp' mà chẳng ai hiểu gì cả. Cả một đoạn văn 74 chữ, chúng ta không thấy một ý nào cụ thể và không thể trích dẫn bất cứ câu nào.
Dĩ nhiên, những đặc điểm này không phải là độc quyền của các lãnh đạo Việt Nam, mà thỉnh thoảng các chánh khách phương Tây cũng vướng phải. Khi họ vướng phải, người dân biết vị chánh khách đó có vấn đề, hoặc là không nắm vững vấn đề, hoặc là lúng túng. Vì không nắm vững vấn đề nên họ nói chung chung. Vì không hiểu mình nói gì nên cách tốt nhứt là ví von. Vì quen lối suy nghĩ mù mờ nên họ hô khẩu hiệu.
Một đặc điểm khác của giới lãnh đạo Việt Nam là không có tính hài hước. Ai cũng tỏ ra nghiêm trọng, mặt mũi rất 'serious', rất xa rời dân chúng. Những bài nói chuyện của lãnh đạo Việt Nam rất khó gần với người dân do ngôn ngữ cứng đơ và kém thân thiện, cùng cách họ triển khai bài nói chuyện quá xa rời công chúng. Chẳng hạn như khi họ đọc, họ ít khi nào nhìn khán giả; làm cho khán giả có cảm giác họ đang nói với tờ giấy hơn là nói với mình.
Ngược lại, bài diễn văn của các chánh khách phương Tây thường rất sinh động, thực tế, và có khi … vui. Họ tỏ ra vui tính, hài hước. Thử nhìn cách các ông Obama, Clinton, Trump nói chuyện sẽ thấy họ rất hùng biện và lúc nào cũng chọc cười khán giả. Ông Thủ tướng Úc Morrison thỉnh thoảng còn 'châm chít' lãnh đạo đối lập làm cho khán phòng cười ngã nghiêng.
Những người lãnh đạo giỏi và có bản lãnh họ không chỉ nói, mà còn thực hiện những gì họ nói. Ngay cả cách nói, mỗi một lần phát biểu họ đều để lại những câu mà báo chí có trích trích dẫn (quotable words) hay làm cho người nghe phải suy nghĩ vì nó có cái 'wisdom' hay trí khôn trong đó. Lãnh đạo mà không để lại phát ngôn gì mang tính thông thái, không có tầm ảnh hưởng thế giới, thì mãi mãi chỉ là 'lãnh đạo', chớ không thể nào là 'lãnh tụ' được.