Nguyễn khắc Nhẫn
Bài học của sự cố mất điện lớn
tại miền nam Việt Nam
1-Những sự cố mất điện quan trọng đã xẩy ra
trên thế giới :
1.
Trước khi đề cập đến sự cố ớ Việt Nam, tôi xin phép nhắc lại, theo thứ tự thời
gian, những sự cố nổi tiếng nhất diễn ra từ nửa thế kỉ nay (không kể Trung Quốc
và Nga). Người ta gọi « blackout » khi sự cố tác động đến hàng trăm
ngàn hay hàng triệu người.
Mỹ, 1965 : toàn bộ miền Đông Bắc nước Mỹ và
phía Nam Ontario với 30 triệu người bị cúp điện. Nguyên nhân là do một đường dây 230 kV bị cắt, sau đó là các đường
dây nối tiếp và sự ngưng hoạt động các tổ máy.
Mỹ, 1977 :
thành phố New York bi chìm trong bóng tối, 6 GW bị cắt. Nguyên nhân là do
mưa giông và sét đánh. Điện được phục hồi 15 giờ sau đó.
Pháp, 1978
( 19/12) : sụp đổ toàn bộ lưới nối
Paris và miền Đông. Lý do ở sự quá tải (giờ cao điểm, thời tiết quá lạnh) trên
đường dây 400 kV Nancy-Troyes. Rã điện dây chuyền. Đó là sự cố lớn nhất xảy ra ở
Pháp.
Pháp, 1987 (12/01): ban đầu 3 tổ của nhà máy nhiệt điện Cordemais bị
ngưng, tiếp theo sau đó là 9 tổ nhiệt điện và hạt nhân. Công suất mất là 9000 MW. Toàn bộ miền Tây nước Pháp bị ảnh hưởng, Điện áp sụp đổ nhanh chóng. Nguyên
nhân là do 1 máy biến thế.
Nhật, 1987
( 23/07) : 3 triệu dân vùng Tokyo bị
cúp điện. Lý do là trời quá nóng và việc sử dụng máy lạnh quá mức, Lưới mất ổn
định, điện áp sụp đổ. Các tổ của 3 nhà máy bị ngưng.
Canada, 1989 ( 13 /03 ) : 6 triệu
dân vùng Québec bị mất điện. Nguyên nhân là do ảnh hưởng của từ trường trái đất
liên quan đến gió mặt trời mạnh.
Canada và Mỹ, 1998 (tháng 1): vùng bị ảnh hưởng nặng nhất là
Québec. Lý do là bão tuyết. Sức nặng của mưa đá đã làm gãy đổ rất nhiều tháp và trụ điện.
Đan Mạch
và Thụy Điển, 2003 ( 23/09) : 5 triệu người bị ảnh hưởng.
Ý-Thụy
Sĩ, 2003 ( 28/ 09 ) : 56
triệu khách hàng bị cúp điện. Nguyên nhân gây ra bởi sự phóng điện giữa một cây
xanh và đường dây cáp, và sự quá tải 110% trên một đường dây.
Thụy
Sĩ, 2005 ( 22/06 ) : 1500 tàu lửa bị tê liệt và 100.000
hành khách bị mắc kẹt. Lý do ở ngắn mạch trên một đường dây, rã nhiều nhà máy
và phản ứng dây chuyền.
Châu
Âu, 2006 ( 4/11) : 15 triệu dân châu Âu bị mất điện. Sự
cố lớn nhất tác động lên hệ thống UCTE ( Union pour
la Coordination du Transport de l'Electricité ). Nguyên nhân do hai đường
dây 400 kV ngừng hoạt động theo kế hoạch rồi sau đó bị hoãn lại vì một tàu thủy
trên sông Ems ở Đức. Nhiều đường dây bị rã (do tải điện) và nhiều nhà máy ngừng
hoạt động. Sự cố càng trầm trọng do các máy phát điện gió nối vào hệ thống một
cách không liên tục.
Mỹ, 2008
( 26 /02) : 3 triệu người ở
Floride không có điện trong vòng 4 tiếng đồng hồ. Lý do sự cố kĩ thuật tại một
trạm biến thế ở gần Miami. Ngừng hoạt động 2 lò phản ứng hạt nhân.
Nhật, 2011 (11/03) : 4 triệu dân vùng Tokyo bị cúp điện. Nguyên nhân do động đất
và sóng thần (thảm họa nhà máy điện hạt nhân Fukushima)
Ấn Độ, 2012 ( 31/07 ) : 670 triệu người mất
điện. Đây là sự cố lớn nhất trong lịch sử. Lý do : hệ thống (lưới bị bão
hòa và suy yếu vì mức tiêu thụ điện tăng trưởng quá nhanh) và nhất thời (thiếu nước cho các nhà máy thủy điện
do hạn hán)
Philippines, 2013 ( 8/05) :
Manille và 40% đảo Luzon bị cắt điện.14 nhà máy điện ngưng chạy.
Thái Lan, 2013 ( 21/05) : 8 triệu
dân của 14 tỉnh bị tê liệt. Nguyên nhân do sét đánh.
1.
2- Nguyên nhân sự cố ở Việt Nam
2.
Tôi mong sớm có dịp đọc được bản báo cáo
chính thức của EVN ( Electicité du Việt Nam ) để biết rõ chi tiết kĩ thuật và sự
mất mát to lớn về kinh tế.
3.
Theo báo chí
trong nứơc, sự cố (blackout) xảy ra ngày 22/05/2013, vào khoảng 14h19,
là do một cây chạm vào đường dây 500 kV Di Linh – Tân Định (sự cố Ý-Thụy Sĩ
ngày 28/9/2003 cũng có nguyên nhân tương tự). Có phát ra tia lửa điện và một tiếng
nổ, sau đó là sự rã kế tiếp nhau các mạch truyền tải và phân phối, kể cả đường dây
500 kV, đưa điện từ Bắc vào Nam. Sự cố dẫn đến phản ứng dây chuyền ở 19 nhà máy
phía Nam : 43 tổ máy bị ngưng họat động. Tổng công suất bị cắt là 9400 MW
(tương đương với 9 lò phản ứng hạt nhân). 8 triệu khách hàng (hộ gia đình, công
ty, hành chính...), trong đó 1,8 triệu dân thành phố Hồ Chí Minh bị mất điện
trong thời gian từ khoảng 1 đến 8 tiếng đồng hồ. Hai chục năm qua không có sự cố lớn như vậy là may lắm !
Nguyên nhân ban đầu không phải là quá tải như
trường hợp ở sự cố lớn nhất của EDF ( Electricité de France ) ngày 19/12/1978
(EDF lầm tưởng rằng các rơ le sẽ tự động giải quyết vấn đề – một phần lớn của
lưới điện Pháp có thể được cứu vãn, nếu EDF lúc bấy giờ cắt điện ngay lập tức!)
Sự mất điện nhanh chóng của lưới điện miền Nam liên quan đến nhiều
hiện tượng vật lý đựơc trình bày sau đây.
3- Những hiện tượng khoa học đưa đến sự sụp đổ lưới điện :
Trong
quá trình sụp đổ, các hiện tượng vật lý đáng lo ngại nhất là :
Quá
tải trên đường dây (cường độ quá lớn) gây sự rã điện nối tiếp nhau ở nhiều đường
dây cũng như ở các tổ máy phát điện
Mất
tần số (f)
Mất
điện áp (U)
Mất
đồng bộ giữa các nhà máy (f1 – f2)
Dao
động ở tần số thấp ( trường hợp các hệ thống điện rất lớn)
Sự kết hợp hay nối tiếp nhau của các hiện tượng
là thường xuyên xảy ra.
Một kiến trúc hệ thống điện nghiên cứu kĩ, một
kế hoạch nghiêm túc, với những nhân viên khai thác kinh nghiệm, có thể tránh được
nhiều sự cố.
Theo UCTE, lưới điện phải tiếp tục hoạt động
sau khi mất bất kì tổ phát điện hay bất kì đường dây nào (nguyên tắc N-1). Pháp
còn đòi hỏi cao hơn với nguyên tắc (N-k) với k lớn hơn 1 (nghĩa là lưới điện
không bị sụp đổ ngay cả khi có 2 tổ bị ngưng )
Danh sách những sự cố đã xẩy ra cho thấy
rằng trong thực tế ta có thể gặp nhiều trường hợp cực
kì phức
tạp, dẫn đến nhiều sự cố khác nhau hoặc đồng thời. Bên cạnh những hiện tượng vật
lý trên đây, người ta còn gặp những sai sót do yếu tố con người (trình độ đào tạo,
mất tỉnh táo, cẩu thả, bảo trì...) hay thiết bị (rơ le, automat, hệ thống bảo vệ,
hệ thống ổn định...)
Làm kế
hoạch hệ thống điên ở EDF, chúng tôi thường giải bài tóan kinh tế khá phức tạp
sau đây :-
Cs :
kinh phí dự án ( coût du projet ou de la stratégie )
It :
kinh phí đầu tư năm t
Et :
phí tổn khai thác năm t kể cả tổn hao
Dt :
phí tốn sự cố mất điện năm t ( coût de la défaillance ou coût du préjudice
causé à la collectivité en cas de coupure du courant )
V(T) :
giá trị sử dụng của hệ thống điện năm T( valeur d'usage du réseau à l'année T)
a : hệ số
hiện tại hóa ( taux d'actualisation )
4- Những biện pháp bảo vệ an toàn lưới điện :
Tôi xin vắn tắt nhắc lại vài biện pháp phòng ngừa
cổ điển :
Làm hai
đường dây hoặc đường dây hai mạch ( để dự phòng nhưng không phải lúc nào cũng
kinh tế)
Chôn
các đường dây dưới đất để tránh các hiện tượng thời tiết bất thường (mưa giông,
sét bão, sương giá, băng tuyết). Những đường dây ngòai trời thì rẻ hơn rất nhiều,
do đó có vấn đề quan trọng về chi phí. Mặt khác, với điện áp cao và rất cao,
người ta tránh chôn các sợi dây cáp, vì dòng phản kháng rất lớn.
Duy
trì công suất dự phòng cho các nhà máy
Sử
dụng hệ thống FACTS ( Flexible AC Transmission System )
Tăng độ ổn định của hệ thống bằng cách nối liền với các nước lân cận
Áp
đặt các điều kiện về ổn định (mất tần số) đối với việc sản xuất năng lượng tái
tạo (ví dụ năng lượng gió)
RTE
( Réseau de Transport d'Electricité) của
Pháp có những quy định đặc biệt nghiêm ngặt cho việc bảo vệ lưới điện. Nó bao gồm
nhiều hàng rào kế tiếp nhau. Bảo vệ theo chiều sâu truyền thống bao gồm :
tách
tự động các vùng bị mất đồng bộ
cắt
điện tự động các hộ tiêu thụ do giảm tần số
chặn
xung quanh các bộ điều chỉnh các máy biến áp
cô
lập ( ilotage ) tự động các tổ phát điện theo các máy phụ trợ
Người ta phân biệt 3 lĩnh vực : thiết bị,
tổ chức và nhân sự và 3 giai đọan : ngăn ngừa, giám sát và biện pháp cuối
cùng.
Ngăn ngừa nhằm không cho khơi mào các hiện tượng
đáng ngại nêu trên (ví dụ, điều chỉnh kế hoạch điện áp cao và giám sát các nguồn
dự trữ công suất phản kháng của các tổ máy)
Giám sát nhằm phát hiện các sai lệch của các
thông số vật lí chính (điện áp, tần số, cường độ) để thực hiện đúng lúc các động tác cần thiết.
Các điểm hoạt động có nguy cơ cao nhất có thể được phát hiện bởi các bộ báo hiệu
về nguy cơ mất ổn định điện áp.
Biện pháp cuối cùng bao gồm các hành động đặc
biệt nhằm ngăn chặn sự sụp đổ lưới điện.
Những nhân viên điều phối và những nhân viên phụ
trách khai thác phải biết lấy quyết định dứt khoát, không ngần ngại hi sinh một
phần khách hàng để tránh sự tan rả cả lưới. Cắt điện cấp tốc có thể cứu được hệ
thống, bởi ta làm cân bằng giữa cung cấp và tiêu thụ.
Khi xảy ra sự cố của lưới điện châu Âu ngày
4/11/2006, sự cắt điện tự động chớp nhóan đã giúp tránh sụp đổ toàn bộ hệ thống.
Các thao tác bằng tay rất chậm không phải lúc
nào cũng đáng được tin cậy. Chúng ta cần các thiết bị tự động đặc biệt nhanh.
Bất kể hệ thống bảo vệ tinh xảo đến đâu,
ta cũng không bao giờ loại trừ được một sự cố lớn có thể xảy ra.
Đừng quên rằng lúc phục hồi lại lưới điện cần thời gian để đi các bứơc sau đây :
Chẩn đoán hiện trạng
⁃
Chuẩn bị lưới điện
⁃
Khôi phục từ các vùng
⁃
Truyền điện lại ( renvoi de la
tension )
5- Bài học cho Việt Nam là gì :
Sự cố
ngày 22-5-2013 cho ta thấy sự mỏng manh của hệ thống điện Việt Nam, đặc biệt là
đường dây 500 kV Bắc Nam quá dài.
Năm 1992, lúc về nước công tác, tôi đã gửi một báo cáo cho chính phủ, trong
đó tôi trình bày những lý do tại sao tôi không ủng hộ việc xây dựng đường dây
500 kV này:
⁃
Không ổn định động ( instabilité
dynamique ) của đường dây bằng một phần tư bước sóng (quart d'onde =1500 km)
(vì lẽ ấy mà có 5 trạm bù rất tốn kém )
⁃
Thời gian xây dựng quá ngắn (24 tháng
thay vì 60 tháng)
⁃
Thiếu thì giờ nghiên cứu về địa hình
và địa chất
⁃
Đánh giá thấp chi phí lúc ban đầu :
300 triệu thay vì 600 triệu đô la Mỹ (trong thực tế chi phí cuối cùng cao hơn
nhiều)
⁃
Dự án không kinh tế và không bảo vệ
môi trường
⁃
Chi phí khai thác rất lớn (do phải đi
qua rừng rú và nhiều vùng có cây che phủ)
⁃
Rất khó đảm bảo an toàn và an ninh đường
dây
Ngay lúc bấy giờ, tôi đã đề nghị nên sớm
áp dụng mô hình sản xuất điện phân tán ( production décentralisée ) phù hợp với
việc khai thác năng lượng tái tạo sau này. Các vùng phải tìm cách độc lập về điện,
nhưng liên kết để có thể cứu cho nhau.
Các nhà máy với công suất nhỏ hay vừa nên đựơc xây cất rải rác trên tòan
lãnh thổ. Cân bằng giữa sản xuất và tiêu thụ ở địa phương và từng vùng đảm bảo
an toàn hơn cho sự cung cấp điện, đồng thời tránh kinh phí làm đường dây và
lãng phí truyền tải.
Sau sự cố vừa qua, có người đã đề nghị xây dựng
thêm đường dây Bắc Nam. Điều đó không hợp lý chút nào về mặt kinh tế lẫn kĩ thuật
và đi ngựợc chiều với mô hình phân tán ngày nay. Trong bản báo cáo nói trên, tôi
đã nêu ý kiến nên củng cố các cột tháp để khi cần lắp mạch thứ hai, khỏi phải
làm đường dây 500 kV khác. Nhưng tiếc
không ai nghe !
EVN cần xét lại chiến lược phòng chống cho
toàn hệ thống truyền tải, phân bố và phân phối điện lực
Trước mắt, đảm bảo an tòan cho hệ thống điện quốc
gia hiện thời không thể chỉ trông cậy vào việc xây dựng thêm các nhà máy và đường
dây. Nên để dành các phương tiện tài chính để củng cố và nâng cấp sự bảo vệ chu
đáo các mạng lưới
6- Việt Nam và hệ thống điện thông minh ( Smart
grid ) :
Dù sao trong tương lai, với sự phát triển
nhanh chóng (mà tôi mơ ước từ lâu ) các nguồn năng lượng tái tạo và cách sử dụng
mới về điện năng, EVN cũng phải hiện đại
hóa hệ thống điện.
Nên tiến hành từng bước với một kế hoạch
trung và dài hạn, phải có sự phối hợp chặt chẽ, bởi vì sự hiện đại hóa này cần
kinh phí rất lớn.
⁃
Trong khi ngành tin học làm bùng nổ cuộc
cách mạng số với internet và điện toán đám mây ( cloud computing ), những người
làm việc trong lĩnh vực điện đang sống cuộc cách mạng năng lượng, với một trong
những hướng đi hứa hẹn nhất nhì là Smart grid. Người ta đã đề cập đến Smart
meter, Smart consumers, Smart home,
Smart building, Smart city, Smart transport...
Trong lĩnh vực tin học, Microsoft và Google
cũng đã nghĩ đén điện kế thông minh để thiết lập các bảng tiêu thụ. Khách hàng,
nếu chỉ biết một ít chi tiết về cách tiêu thụ thôi, cũng có thể giúp họ làm giảm
chi phí.
Khắp nơi trên thế giới và đặc biệt là ở
Pháp và châu Âu, thay vì xây dựng ồ ạt các đường dây mới như trong quá khứ, họ
ưu tiên triển khai các công nghệ Smart grid.
Ta biết rằng, vào bất cứ lúc nào, để duy
trì ổn định của lưới thì cung phải bằng cầu.
Khi mà điện năng không thể lưu trữ (với số
lượng lớn), các lưới thông minh cho phép tối ưu các mắt lưới trong hệ thống điện,
bao gồm tất cả các nhà sản xuất và tiêu thụ, bằng cách cải thiện hiệu suất các
nhà máy, tối thiểu hóa các tổn thất trên đường dây, ưu tiên đón nhận các nguồn
năng lượng tái tạo, phân phối điện với chi phí rẻ nhất .
Mặt khác, Smart grid còn cho phép tăng cường sự
an toàn, tiết kiệm năng lượng, cải thiện hiệu quả năng lượng, san bằng các đỉnh
tiêu thụ, giảm công suất phát đỉnh (tốn kém nhất và thường là ô nhiễm nhất), giảm
một phẩn CO2.
Cấu trúc sản xuất phân tán, với nhiều nguồn
năng lượng tái tạo, thực hiện việc đưa năng lượng vào các lưới phân phối ( ban
đầu thiết kế để chuyển đi chứ không phải để thu gom lại ). Nhờ công nghệ thông
tin và truyền thông, các lưới liên lạc với nhau, cho phép đảm bảo sự cân bằng sản
xuất – tiêu thụ ở từng thời điểm, với khả
năng phản ứng và tin cậy cao hơn. Có sự tương tác giữa tất các các đối tượng, đặc
biệt là phía người tiêu thụ, trong suốt dây chuyền hệ thống mà giờ đây không
còn tuyến tính nữa. Khách hàng được khuyến khích giảm bớt tiêu thụ một cách dễ
dàng vào những giờ cao điểm. Họ sẽ có thể tiêu thụ ít hơn với cùng tiện nghi. Sự
điều chỉnh nhằm đảm bảo cân bằng được thực hiện không chỉ bởi phía cung và còn
bởi, và nhất là, phía tiêu thụ.
Kiến trúc top-down cổ điển của hệ thống điện
chúng ta rồi đây không còn hợp thời nữa ! Trong tương lai, hệ thống sẽ hoạt
động theo kiểu tương tác (top-down và bottom-up). Mạng lưới thông minh và liên
lạc với tốc độ cao cho phép tự điều khiển, tự sản xuất và tự tiêu thụ. Smart grid
chiếm ưu thế nhờ các thiết bị đo đạc và viễn thông tinh xảo, các máy tính mạnh
và các phần mềm tối ưu và thích nghi.
Trong hai năm 2010 và 2011 vừa qua, ERDF (chi
nhánh của EDF) đã thử nghiệm điện kế thông minh Linky với 300.000 khách hàng tại
vùng Tours và Lyon. Nếu mọi việc tốt đẹp, kể từ năm 2014, Pháp sẽ bắt đầu triển
khai 35 triệu điện kế Linky. Chi phí đầu tư sẽ trên 5 tỉ euro.
Sự linh
hoạt của hệ thống điện thông minh cũng cho phép quản lý các ràng buộc tinh tế
như sự gián đoạn của các nguồn năng lượng tái tạo và sự phát triển của các loại
hình sử dụng mới như ô tô điện.
Người ta có thể nói rằng nhà kinh tế người Mỹ
Jeremy Rifkin (mạng internet năng lượng) và Tổng thống Obama (trong một diễn
văn nổi tiếng) đã thành công trong việc khơi dậy những suy nghĩ hữu ích ở những
nhà công nghiệp về sự quan trọng sống còn của mạng lưới thông minh. Theo Bộ
năng lượng Mỹ, nếu nhờ Smart grid mà lưới điện của Mỹ cải thiện hiệu quả 5% thì
nó cho phép tiết kiệm khoảng từ 46 đến 117 tỉ đô la từ đây đến 10 năm sau (chưa
tính đến tiết kiệm về khí thải gây hiệu nhà kính từ 53 triệu ô tô!). Về phía
châu Âu, nhờ vào Super Smart Grid ( SSG ), có thể phát triển mạnh mẽ năng lượng
tái tạo và phân tán, giảm mạnh CO2, đồng thời đảm bảo an toàn hệ thống điện.
Nhật và Đức (thành phố Fribourg), dẫn đầu trong
nghiên cứu về hiệu quả năng lượng, một phần nhờ vào Smart grid, tiêu thụ ít hơn
trước đây trong khi vẫn đảm bảo nguyên vẹn chất lượng dịch vụ.
Ở nước ta, các chuyên viên quy hoạch đô thị,
các kiến trúc sư nên chú trọng đến việc cải thiện các quy định về xây dựng và
trùng tu, quan tâm nhiều hơn đến chất lượng môi trường xây dựng, bằng cách kết
hợp, mỗi khi có thể, những nguồn năng lượng tái tạo (gió, mặt trời, địa nhiệt,
sinh khối...) trong các tòa nhà, căn hộ cá nhân đủ điều kiện.
Sự xuất hiện Smart grid rõ ràng đặt ra những
vấn đề tài chính gay go cần giải quyết.
Phải đầu tư mạnh, bắt đầu từ mạng lưới phân phối. Bài tóan kinh tế hiện nay
chưa thể định nghĩa rõ ràng.
Nhưng ta có thể nói ngay rằng mạng lưới thông
minh sẽ mang lại lợi ích cho tất cả mọi người : nhà sản xuất, nhà cung cấp,
nhà công nghiệp, người tiêu dùng, các tổ chức và cuối cùng là nhà nước.
Tất cả các nước phát triển đều hướng đến mạng
lưới thông minh. Smart grid sẽ chiếm một vị trí thống trị trong hệ thống điện
tương lai.
Chương trình hạt nhân Việt Nam dự kiến, từ 2014 đến 2030, sẽ xây cất 14
lò phản ứng (1000 MW mỗi lò, trong số 10
lò đầu, sau đó là 1300 MW – 1500 MW) phân bố trên 8 địa điểm, nằm tại 5 tỉnh ở
miền Trung. Trên giấy mực, thời điểm để đưa vào hoạt động lò phản ứng số 1 của
Nga là năm 2020 (điều này chắc là không thể kịp) !
Năm tỉnh đó là : Ninh Thuận (3 địa điểm), Quảng Ngãi (2), Phú Yên
(1), Bình Định (1), Hà Tĩnh (1).
Khai thác hệ thống điện quốc gia với nhiều
lò phản ứng hạt nhân ( mà thời gian dừng và tái khởi động không nhanh được ),
liệu EVN có kịp chuẩn bị để đối phó với những sự cố vô cùng phức tạp và quan trọng
hơn không ?
7- Đôi lời tâm huyết :
Như đã trình bày ở trên, nếu cứ tiếp tục tập trung những nhà máy đồ sộ
ở miền Trung, theo mô hình cổ điển đã lỗi thời, thì ta đi ngược trào lưu kĩ thuật
mà không biết !
Rồi đây dân chúng, sẽ
sợ lãnh thổ bị cắt đôi vì phóng xạ hơn là lo bị cắt điện. Đồng bào sẽ không ngủ yên vì sợ đất nước bị sụp đổ hơn là
lưới điện bị tan rả !
Tôi thiết tha đề nghị Chính phủ Việt Nam cấp tốc
thay đôi chiến lược về năng lượng để khỏi hối tiếc . Chính phủ cần thể hiện một quyết tâm chính trị tham vọng và quyết liệt
trong việc khuyến khích triệt để khai thác năng lượng tái tạo, hiệu quả và tiết
kiệm năng lượng. Ta đừng vội quên sự đổi hướng thông minh và can đảm của nước
Đức và cũng nên biết rằng Danemark sẽ có
100% năng lượng mặt trời vào năm 2050 !
Ta nên cố gắng phát triển ngay từ bây giờ một kế họach giáo dục
năng lượng chủ động cho đồng bào. Việc thay đổi thói quen tiêu thụ của người
dân là đặc biệt cần thiết
Để có thể hòa nhịp với cuộc cách mạng
năng lượng thế giới đang bùng nổ, để tránh sự chậm trễ kéo dài, nứơc ta không
còn lựa chọn nào khác ngoài việc từ bỏ nhanh chóng chương trình điện hạt nhân,
quá tốn kém và vô cùng nguy hiểm cho biết bao nhiêu thế hệ con
cháu mai sau !
Với hàng chục, hàng trăm tỉ đô la đổ vào
14 lò phản ứng, rồi sau này phải tháo gỡ các nhà máy, xử lý chất thải phóng xạ, chưa kể việc xây dựng các
đường dây mới, EVN có thể đầu tư dần dần, từng bước, và ngay từ bây giờ, vào một
kiến trúc thông minh, hiện đại và an tòan cho hệ thống điện quốc gia.
Người xưa nói :
Tri bá niên tiền
Tri
bá niên hậu
Nguyễn khắc Nhẫn,
Nguyên Giám đốc trường Cao đẳng Điện học và Trung tâm Quốc gia Kĩ
thuật Sài Gòn ( nay là Đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh)
Nguyên cố vấn Nha Dự báo, Kinh tế và Chiến lược EDF
Nguyên Giáo sư Viện Kinh tế, Chính sách năng lượng và Đại học Bách
khoa Grenoble
No comments:
Post a Comment