Saturday, May 2, 2020

Hồi tưởng thời tị nạn (kỳ 2)


Tượng thuyền nhân Việt Nam tại Kangaroo Point (Brisbane, Queensland)
Giáo sư NGUYỄN VĂN TUẤN (ÚC)

Phần II. Những ngày đầu trên đất Úc

Sau ba lần chuyển trại, lần này thì tôi được đi Úc thật sự. Thật ra, lúc lên máy bay tôi chưa biết mình đi đâu hay sắp định cư ở thành phố nào! Chỉ biết đi khỏi nơi khổ cực này để làm lại cuộc đời là ok rồi. Hóa ra là tôi được đi Sydney (hồi đó, có người được ‘phân công’ đi Darwin, Melbourne, Brisbane, v.v.) Lúc đó, không ai hình dung ra nơi mình sắp tới như thế nào, dù đã qua vài lớp học về văn hóa nước Úc và phong tục tập quán người Úc. Sau hơn tám giờ bay, máy bay đang hạ dần cao độ, tôi đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, thành phố Sydney đã hiện ra trong tầm mắt. Tôi sắp tới Úc. Cái ý tưởng đó làm cho tôi bồi hồi, xúc động một cách khó tả. Trên máy bay, cô tiếp viên nói trên loa câu “Welcome to Sydney, Australia!” (Chào mừng các bạn đến Sydney, Úc Đại Lợi) và thông báo cho chúng tôi biết hôm nay là ngày 26 tháng 1 năm 1982, ngày Quốc khánh của Úc. Tôi đến Úc đúng ngày Quốc Khánh!

Sydney không ‘hoa lệ’

Mới ra khỏi phi trường và qua hải quan, tôi đã thấy choáng với cái nóng. Phải nói là nóng hừng hực. Người bạn đón tôi nói rằng nhiệt độ hôm đó lên đến 42 độ C (nhưng sau này có người kiểm tra thì không phải nóng như vậy, chỉ chừng 38-40 gì đó, nhưng vẫn là rất nóng). Úc đang vào mùa hè. Hèn gì những người đứng đón thân nhân ở phi trường ai cũng mặc đồ mát mẻ, nam thì quần short áo thun, nữ cũng vậy. Trông phi trường và quang cảnh chung quanh chẳng có gì là ‘hoa lệ’ cả, thậm chí có phần kém sang trọng hơn phi trường Bangkok. Thôi thì: Chào mừng bạn đến Sydney!
Đứng xếp hàng một hồi thì được nhân viên di trú “lùa” lên một cái xe bus (lúc đó là rất lớn với tôi). Nhóm chúng tôi chắc cũng độ hơn 30 người, chẳng ai biết mình đi đâu, nhưng chỉ biết là từ này mình hưởng tự do sau những ngày tháng cực khổ và đắng cay ở Thái Lan. Xe chạy bon bon trên đường, chẳng thấy thành phố hay nhà cao tầng đâu cả, mà chỉ toàn là nhà cửa bằng gạch đỏ. Nhà nào cũng có vẻ rộng rãi, tươm tất, và hầu như tất cả đều có sân cỏ phía trước. Tôi còn nhớ xe chạy dọc theo một con lộ rất đẹp, hai bên là cây cối um tùm, xanh tươi, sạch sẽ. Sau này tôi mới biết đó là con lộ Henry Lawson Drive (tên của một nhà thơ nổi tiếng người Úc). Một lần nữa, không hề thầy Sydney tráng lệ gì cả. Thật ra, nhìn có vẻ đồng quê hơn, nhưng là đồng quê quá đẹp.
Sau độ 30 phút thì đến một khu nhà rất rộng tên là Cabramatta Hostel. Lúc đó, tôi còn chưa biết hostel là gì, vì hồi nào đến đó tôi chỉ nghe đến hotel, chứ có biết hostel là gì đâu. Cabramatta Hostel nằm trên một cái đồi thuộc vùng Cabramatta, nơi mà sau này trở thành “thủ đô” của người Việt ở Sydney. Từ Hostel đi bộ ra khu phố Cabramatta chừng 15 phút. Cabramatta nằm ở vùng Tây Nam Sydney, là nơi mà dân địa phương gọi là ngoại ô lao động, ý nói người nghèo. Thời đó (tức ~40 năm trước) Cabramatta là một nơi bán nông thôn. Đường xá rất ít xe qua lại, các dãy phố tương đối cũ kỹ nằm im lìm, người đi phố chẳng bao nhiêu. Năm 1982, Cabramatta chỉ có một nhà hàng Việt Nam và một tiệm thực phẩm Á châu duy nhất nằm trên đường John. Chúng tôi là khách hàng trung thành của tiệm thực phẩm này, còn quán phở kia thì… chưa đủ tiền để phung phí.
Hostel này có chừng 10 dãy nhà hai tầng. Mỗi dãy nhà có ~20 căn hộ, mỗi căn có hai phòng ngủ và một phòng khách và bếp. Người tị nạn và di dân khắp nơi trên thế giới được qui tụ ở đây một thời gian để học tiếng Anh và văn hoá Úc trước khi ra ngoài ổn định cuộc sống. Ngoài người Việt, Khmer, Lào ra, còn có người Nga, Ba Lan, Tiệp, Hungary, Hong Kong, Trung Quốc, v.v. Nhưng có lẽ đông nhất vẫn là người Việt. Tôi ở hostel này được ba tháng trước khi tìm được việc làm, mướn nhà và dọn về vùng Campsie (gần Sydney hơn).
“Một góc Sài Gòn” ở Úc (internet)
Bất đồng văn hóa xảy ra ngay từ những ngày đầu tiên ở hostel này. Nói chính xác hơn là văn hóa ẩm thực. Ở đây, người ta có nhà bếp rất lớn và đầu bếp hẳn hoi. Nhìn cái nhà bếp rộng y như một căn nhà ba phòng! Nhà bếp phục vụ ba bữa ăn: điểm tâm, trưa, chiều. Sáng nào cũng có những món thuần Tây, như bánh mì nướng, trứng chiên, bacon, khoai tây, cà nướng, v.v. Những món mà tôi hay thấy trên phim thời còn ở Việt Nam, và nghĩ rằng chắc sang và ngon lắm. Nhưng thử rồi mới thấy hỡi ơi! Hồi nào đến giờ chỉ quen mì, hủ tíu, phở, chứ đâu quen mấy món này. Tuy nhiên, phải cả năm sau tôi mới làm quen với các món ăn sáng như thế này, và khi đã quen thì lại thấy… ghiền.
Buổi trưa và chiều còn ‘thê thảm’ hơn nữa. Thoạt đầu, nhà bếp phục vụ những món như bò, trừu, gà, rất ít thịt heo. Lâu lắm mới có cơm. Mà, cách họ nấu dĩ nhiên là rất khác chúng ta. Chẳng hạn như cơm họ nấu rất nhão, rất khó ăn; còn các món thịt thì họ dùng sữa rất nhiều, và cách xử lí chưa tốt hay sao ấy nên vẫn còn mùi hôi. Tuy nhiên, nhìn từ ngoài thì thấy rất hấp dẫn, nhưng ít ai dám ăn. Lúc đó, người Việt chúng ta chưa quen ăn thịt trừu. Thành ra, hôm nào có thịt gà thì các dòng xếp hàng toàn là ‘đầu đen’ (dân Á châu); hôm nào có thịt trừu và bò thì các dòng xếp hàng toàn là dân da trắng. Những hôm nào nhà bếp phục vụ thịt trừu, chúng tôi đi mua mì gói về nấu ăn. Nhưng nhà bếp nắm lấy tình hình rất nhanh, nên sau này họ tuyển đầu bếp Á châu. Thế là từ đó chúng tôi được ăn cơm, ăn thịt gà nấu theo kiểu Á châu, có khi có cả nước mắm nữa.
Nhớ nhất là món gà chiên của Kentucky Fried Chicken (sau này đổi tên là KFC). Nhớ ngày đầu tiên, anh Trung hỏi thèm món gì ở Úc, tôi nói ngay thèm gà nướng hay thấy trên phim và trái táo. Anh cười nói: tưởng gì, mấy món này dễ mà. Anh đi ra KFC mua hai con gà nướng về và một bịch táo, nhiều ơi là nhiều, và thêm bao nhiêu thức ăn khác. Ôi, nhìn con gà được chiên/nướng vàng ơm, nó hấp dẫn làm sao, y như trong phim Tây tôi xem trước 1975. Tôi thử ngay cái đùi gà, thì thấy hơi lạ, sao nó không giống gà bên Việt Nam. Đùi gà gì mà mềm quá. Còn nướng thì chẳng có ngũ vị hương gì cả, chẳng có mùi thơm. Nói chung là… dở. Nhưng phải ‘thanh toán’ cho hết. Ăn một lần là không muốn quay lại. Phải mấy năm sau tôi mới dám ăn món gà nướng này. Hóa ra, sau này mới biết gà bên này toàn là gà công nghiệp, nó như bột thôi, chứ chẳng ngon lành gì cả.

St Vincent de Paul

Ngày đầu tiên, sau khi làm thủ tục, tôi được cho 30 đôla Úc. Đó không phải là tiền của Chính phủ, mà tiền của Hội từ thiện St Vincent de Paul. Ngoài ra, tôi còn cho một cái phiếu để lãnh quần áo. Tôi đến Úc với 0 cent trong túi và đúng hai bộ đồ. Cầm cái phiếu đi lãnh đồ, tôi tưởng là đồ mới, nhưng không phải. Đó là cái tiệm bán quần áo cũ cho người nghèo do Hội St Vincent de Paul điều hành. Nói là đồ cũ nhưng còn mới và đẹp với tôi lắm. Theo qui định, tôi được chọn ba bộ đồ (quần và áo) và một đôi giày (vì tôi đến Úc bằng đôi dép, dân vô sản chính hiệu!) Cho đến nay, tôi vẫn giữ ba bộ đồ này làm kỷ niệm, còn đôi giày thì đành phải “chia tay” với nó vài năm sau. Với vài bộ đồ như vậy là cũng đủ trong bước đường đầu tiên trên đất Úc.
Kể ra cũng hay, cuộc đời tôi ở Úc gắn liền với cái tên “St Vincent.” Ngay từ đầu được hưởng lợi từ St Vincent de Paul, đến khi sau này thì làm cho Bệnh viện St Vincent’s gần 30 năm! Có thể nói sự nghiệp tôi gắn liền với nơi này. Đó cũng chính là lý do tại sao sau này tôi tích cực cho quần áo và cho tiền Hội St Vincent de Paul.

Lớp học và cô giáo đầu tiên

Có quần áo rồi, đến lúc đi học tiếng Anh. Những ngày đầu tôi cũng ghi danh học tiếng Anh. Lớp học có rất nhiều di dân từ khắp nơi, nhưng đông nhất vẫn là Việt Nam. Các học viên Đông Âu nói tiếng Anh lơ lớ rất khó nghe, mà di dân Á châu còn… tệ hơn. Khi có dịp tiếp xúc với các di dân tị nạn từ các nước như Ba Lan, Hungary, Tiệp, v.v. tôi phát hiện ra là họ có những nỗi lo y chang như người Việt Nam. Họ sợ công an theo dõi, họ sinh hoạt có vẻ khép kín vì không tin ai cả, và khi nói về hoàn cảnh cá nhân thì họ rất ngập ngừng. Hóa ra, dân tị nạn Tây cũng như Ta4 đều rất giống nhau, vì tất cả đều xuất phát từ thể chế XHCN. Bà giáo thì khuyên rằng ở đây có luật pháp đàng hoàng, chẳng sợ ai cả, và ở đây không có ‘công an’, chỉ có police (cảnh sát) thôi. Bà ấy lấy vài tờ báo ra và chỉ những cái tít chỉ trích chính phủ hàng ngày, rồi tươi cười chỉ vào hình ông thủ tướng và nói: “Mai mốt tôi không bầu cho thằng cha này.” Tôi kinh ngạc. Trời ơi, sao bà dám nói oang oang như vậy!?
Cách dạy tiếng Anh ở đây chủ yếu là để học viên có đủ kiến thức và chữ nghĩa để đi xin việc, chứ không để học lên cao. Cô giáo là một người rất tuyệt vời về kỹ năng sư phạm và hết sức vui tính. Cách dạy chủ yếu là đàm thọai, hơn là viết. Mục tiêu là giúp học viên sớm hội nhập và có thể đi xin việc. Bà giáo có vẻ thích tôi, một phần có lẽ là học nghiêm túc, một phần là hỏi hoài. Nhớ có lần bà ra đề là viết một lá thư cám ơn cô giáo mà mình nghĩ trong tâm tưởng; tôi viết lá thư và chữ cuối là “As always, with affection” vì tôi học từ một cách viết trên tạp chí Reader’s Digest trong trại tị nạn. Bà giáo đọc lá thư, rồi đến giờ giải lao kêu tôi ra ngoài nói riêng rằng không nên viết như vậy, vì cái chữ đó chỉ dành cho… tình nhân! Thế là học bài học về cách viết thư.
Nhưng tôi chỉ học được một tuần thì bỏ lớp học. Ngày nào cũng “How are you”, “I am fine, thank you”, “How long have you been here”, “I am looking for a job”, v.v. Lớp học có những học viên với trình độ rất khác nhau, nên cách dạy cũng rất chậm. Tôi nghĩ trong bụng với cách học này thì mình tự học còn hay hơn. Nên, chỉ vài tuần sau thì bỏ học… Ngày tôi quyết định nghỉ học, tôi báo cho cô giáo biết. Cô giáo, lúc đó đã gần 50 tuổi, nói rằng vài năm nữa sẽ có lễ kỷ niệm 200 năm ngày thành lập nước Úc, và bà nói sẽ hẹn tôi ở cầu Harbour Bridge. Nhưng hẹn cho vui thôi, chứ đến ngày lễ thì làm sao tìm lại cô giáo đầu tiên. Nhưng hình ảnh về một cô giáo người Úc nhanh nhẹn, hoạt bát, vui tính, và nhất là rất thương người tị nạn không hề phai nhòa trong kí ức tôi.
Cổng Hữu Nghị tại Cabramatta, nơi tập trung đông đảo người Việt đến Úc như hậu quả của thời hậu chiến sau 1975 tại Việt Nam (New York Times)

Thủ tướng… khóc

Tôi đến Úc trong lúc nền kinh tế đang suy thoái (depression). Suy thoái kinh tế dẫn đến biến động chính trị. Lúc đó, ông Thủ tướng Malcolm Fraser thuộc đảng Liberal đang cầm quyền, và vì kinh tế suy thoái nên ông không được tín nhiệm mấy. Nhưng đối với người tị nạn thì ông Fraser là một ĐẠI ÂN NHÂN. Chính ông là người ra quyết định nhận người tị nạn Việt Nam, trong lúc công chúng đang bàn cãi chẳng biết đối phó với ‘làn sóng da vàng’ này. Quyết định của Thủ tướng Fraser gây rất nhiều tranh cãi, nhất là trong lúc Úc mới bước ra khỏi chủ trương “White Australia Policy” (tức không muốn nhận di dân từ các nước ngoài Âu châu). Nhưng ông đã làm được cái việc can đảm đó, và lịch sử rất công bằng với ông như là một cứu tinh của hàng vạn người tị nạn.
Sau này (1983), một năm sau tôi đến Sydney, nước Úc tổ chức tổng tuyển cử. Ông Fraser và đảng Liberal bị thất cử, và ông không còn làm thủ tướng nữa. Thủ tướng mới là Bob Hawke thuộc đảng Labor, cũng là một người ủng hộ người tị nạn rất nhiệt tình. Tôi nhớ hoài hình ảnh ông Fraser khi thất cử, vì ông… khóc. Trong đêm tuyên bố ai thắng cử, phe Labor ăn mừng lớn thì phe Liberal rất thảm sầu. Ông Fraser nói chuyện trước ống kính, không cần giấy note gì cả, ông cám ơn cử tri đã bầu và tin tưởng ông, ông nói về tình hình kinh tế bị suy thoái nhưng tin rằng [nói theo tiếng Việt là] ‘sau cơn mưa trời lại sáng’. Nói xong, ông mếu máo khóc. Trời! Lần đầu tiên trong đời tôi thấy một vị thủ tướng khóc rất thật trước ống kính (sau này tôi cũng chứng kiến ông Thủ tướng Bob Hawke khóc vì xe tăng Tàu cán chết người biểu tình ở Thiên An Môn). Những giọt nước mắt đó cho thấy chính trị gia ở đây tình cảm quá.
Họ (chính khách ở đây) rất khác với những người làm chính trị bên nhà. Họ có thể chẳng có trường lớp chính trị gì cả, mà xuất thân như chúng ta thôi. Người thì luật sư (rất nhiều), kẻ từng là bác sĩ, kỹ sư, doanh nhân. Lại có những người xuất thân là dân lao động như buôn bán cá tôm. Họ trở thành dân biểu vì họ có quan điểm hay chính sách đại diện cho cử tri. Họ nói lên tiếng nói, tâm tư và nguyện vọng của cử tri. Họ không có bằng cấp chính trị, bởi vì ở đây không có trường đào tạo làm chính trị. Do đó, có thể nói họ là những ‘chính khách tài tử’. Cái tính tài tử đó thể hiện qua những lời nói và hành động rất gần dân.
Điều này rất khác với Việt Nam, nơi mà người làm chính trị được đào tạo khá kỹ theo cách của chủ nghĩa Mao. Từ lúc trẻ đã có đoàn đội uốn nắn tư tưởng, lớn lên có đảng tạo hình suy nghĩ, rồi có trường chính trị dạy làm lãnh đạo, nói chung là rất có hệ thống. Có thể nói những người làm chính trị ở Việt Nam là rất chuyên nghiệp — họ thật sự “làm chính trị”. Do đó, cách nói và suy nghĩ của họ rất rập khuôn, thiếu tính phong phú, thiếu sự ngạc nhiên, và quan trọng hơn hết là thiếu tri thức — wisdom. Họ làm chính trị, chứ không phải là ‘chính khách’. Ngược lại, các ‘chính khách tài tử’ ở đây họ rất gần người dân, vì họ xuất phát từ dân và nói ngôn ngữ của người dân, họ có những câu nói và hành động rất ‘trần ai’, có khi… nông nổi. Do đó, ngay từ những ngày đầu ở đây, tôi thấy mấy người làm chính trị ở Úc vui hơn nhiều so với những người làm chính trị bên Việt Nam.
Tiệm Phở Tàu Bay tại Cabramatta (New York Times)

Bài học tiếng Anh đầu tiên: “Dymock” và “Oxford”

Quay lại chuyện lớp học tiếng Anh. Sau một thời gian ngắn, tôi quyết tâm tự học. Để tự học, tôi phải có cuốn từ điển Anh-Anh, vì tôi quan niệm học tiếng Anh từ tiếng Anh thì dễ hơn. Sau khi có tiền từ St Vincent de Paul, việc đầu tiên tôi nghĩ đến là mua một cuốn từ điển tiếng Anh. Hồi thời còn ở trại tị nạn, tôi học tiếng Anh từ cuốn từ điển Longman rất hiệu quả, do đó khi qua đây tôi phải tìm mua cho được cuốn từ điển Longman. Bà giáo thì dặn là nên mua Từ điển Oxford. Nhưng ở Sydney, chỉ có mấy nhà sách lớn ngoài Sydney mới có bán, chứ vùng bán thành thị như Cabramatta thì không có tiệm sách. Tôi đón chuyến xe lửa (thật ra là xe điện) từ Cabramatta đi Sydney (tức trung tâm thành phố). Sau khoảng một giờ, tôi cũng đến ga Town Hall.
Bước lên đường George, tôi như người nhà quê ra tỉnh (mà đúng như vậy). Nhìn chung quanh building nào cũng cao vút, cứ nhìn sự hoành tráng của các tòa nhà này chắc chẳng khác gì mấy người bộ đội mới vào Sài Gòn nhìn building mà rớt nón cối (chuyện tiếu lâm). “Ấn tượng” nhất là cái tòa nhà Victoria được xây theo kiểu sandstone, trông rất có duyên và đúng với nghĩa hoành tráng. Người ta thì đi lại tấp nập, hình như ai cũng bận rộn. Điểm đến của tôi là nhà sách Dymock mà bà giáo nói có bán sách. Bà còn dặn là lên khỏi ga Town Hall là sẽ thấy. Nhưng giữa cái nơi ‘phồn hoa đô thị’ này, nhà sách Dymock nằm ở đâu.
Tôi hỏi hết người này đến người kia để biết nhà sách Dymock ở đâu. Ai cũng tử tế dừng lại nghe tôi hỏi, nhưng khổ nỗi tôi đọc chữ Dymock sai nên họ không giúp được gì. Khi một ông tương đối già dừng lại, tôi nói rằng tôi tìm nhà sách Dymock. Tôi đọc là “Đai-Mốc”. Ông già chăm chú lắng nghe và cố tìm trong ký ức nhà sách này ở đâu, nhưng ông chịu thua. Ông hỏi tôi đánh vần tên nhà sách, và tôi sẵn sàng làm ngay. Khi tôi đánh vần xong thì ông vỗ trán kêu lên: “Ah, Đi-Mịk”! Tôi ngỡ ngàng và tự hỏi sao tiếng Anh gì mà phức tạp thế. Rồi, ông ấy chỉ đường cho tôi đến nhà sách, cách đó chẳng bao xa.
Đến nhà sách lại học thêm một bài học phát âm tiếng Anh. Nhà sách Dymock rất lớn, có đến ba tầng, sách nhiều ơi là nhiều. Trong cái thế giới đó thì khó tìm cuốn từ điển, nên tôi phải hỏi người bán sách. Tôi tự tin nói “tôi muốn mua cuốn từ điển Oxford”. Tôi đinh ninh rằng chiếc xe Ford mình đọc là “Fo.d”, vậy thì Oxford đọc là “Ox-Fo.d”. Ở Việt Nam ai cũng đọc như vậy mà. Anh chàng bán sách gãi đầu không biết tôi tìm từ điển gì. Anh ta lại kêu tôi viết xuống tờ giấy trắng, và khi tôi viết xong thì anh ta kêu lên “Ah, Ox-fớd”! Cuốn từ điển đó theo tôi cũng năm tháng, và đến nay đã 37 năm tôi vẫn còn giữ nó trên kệ sách như là một kỷ niệm về học tiếng Anh, dù ngày nay tôi ít khi nào đụng đến nó.
Đến đây thì tôi nghĩ không thể chủ quan trong cách phát âm tiếng Anh được. Không phải như tiếng Pháp, viết sao thì đọc giống vậy, còn tiếng Anh thì nhìn thấy như vậy mà đọc thì không phải vậy. Sau này tôi còn phát hiện rất nhiều chữ mà nếu không có cọ sát với xã hội ở đây thì rất khó phát âm đúng. Những chữ tiêu biểu đó là allowance, kibosh, celtic, candidate, niche, và những cái tên như Beauchamp, Worcester, Chloe, Bohun, Murray, McMahon, v.v. Những chữ/tên này, đa số (có thể 99%) người Việt dù đã có học thạo tiếng Anh vẫn phát âm sai.

Làm phụ bếp

Sau vài tuần ở trong hostel, tôi bắt đầu tìm việc làm. Mỗi ngày tôi dò đọc mục “Employment” trong báo để tìm việc. Có lúc đi theo nhóm, có lúc đi một mình. Dạo đó, hễ có việc gì là lao vào làm, chứ không có lựa chọn. Người khá tiếng Anh thì xin đi làm lựa thư trong bưu điện, người kém tiếng Anh thì xin việc làm ở mấy hãng xưởng (thời đó Úc còn nhiều hãng lắm). Nhưng không may cho tôi, mỗi lần đi phỏng vấn là mỗi lần bị thất bại, vì tôi nói là chưa có kinh nghiệm làm hãng xưởng bao giờ. Ở xứ này, không có kinh nghiệm thì người ta không muốn nhận mình vào làm, có lẽ vì ngại mất thì giờ và tiền bạc để huấn luyện.
Một hôm, trên đường về nhà sau một lần nữa thất bại trong một cuộc phỏng vấn ở một hãng điện, tôi ngẫu nhiên để ý đến một khách sạn có tên “Belmore Hotel” với kiến trúc hơi lạ làm mình dễ nhớ. Tôi lại quay sang tờ báo và lần này, tôi để ý thấy Bệnh viện St Vincent’s đang cần một phụ bếp (kitchen hand). Tôi nghĩ tại sao mình không xin làm phụ bếp mà lại phải loay hoay tìm việc trong các hãng xưởng? Nghĩ thế, tôi vội xuống ga và đón xe điện khác đi ngược về hướng Đông thành phố Sydney, nơi bệnh viện St Vincent’s toạ lạc, để xin việc.
Sau khi điền xong đơn, tôi được bà giám đốc nhà bếp tên là Georgina Ramsey phỏng vấn. Bà hỏi tôi về lí lịch cá nhân, về kinh nghiệm làm trong nhà bếp. Vì đã thất bại quá nhiều lần trong các kỳ phỏng vấn trước đây, kỳ này tôi làm gan nói là có kinh nghiệm làm trong nhà bếp. “Làm ở đâu?” Tôi nhớ ngay đến cái tên Belmore Hotel và trả lời Belmore Hotel! “Làm ở đó bao lâu?” “Dạ, ba năm.” Bà ta nhìn tôi mỉm cười một cách khó hiểu, nhưng quyết định nhận tôi ngay ngày đó, và hẹn tôi ngày mai sẽ bắt đầu đi làm. Tôi mừng quá và trên đường về nhà, tự đãi cho mình một tô phở!
Một góc chợ người Việt (The Economist)

Ngày đầu khóc vì… củ hành

Ngày đầu tiên nhận việc là một ngày đầy ấp kỷ niệm vui buồn. Công việc tôi được giao phó là rửa nồi niêu, chén bát, và đặc biệt là xắt củ hành Tây. Chao ôi, lần đầu tiên trong đời tôi thấy cái gì cũng lớn và cũng nhiều. Số lượng nồi và chén bát nhiều đến nổi không đếm hết. Nói là “rửa chén”, nhưng thật ra là tất cả đều làm bằng máy. Cái máy rửa chén dài khoảng sáu mét, máy có ba đường băng để chén và nồi niêu xoong chảo trên đó, và có một bộ phận tự động chuyển những chén và nồi niêu xoong chảo sang một khu nước nóng để rửa. Đến đầu bên kia, có người chất đồ sạch xuống. Do đó, trên thực tế, suốt ngày tôi chỉ sắp xếp nồi chén chứ chẳng đụng tay rửa gì cả.
Ngoài việc đó, tôi phải làm hành tây và xắt rau cải cho phụ bếp. Khi hết việc thì phải tìm việc khác làm, như lau chùi nhà bếp cho sạch, nhìn cái gì thấy không vừa mắt là phải sửa. Nói chung là không có nghỉ. Không đợi người ta bảo phải làm gì mà phải chủ động đi tìm việc để làm. Không có chuyện đứng xớ rớ. Mỗi ngày có ba lần nghỉ giải lao: lần thứ nhất là khoảng 10 giờ sáng, được nghỉ 15 phút để uống cà phê; lần thứ hai là 1 giờ trưa, được 30 phút để ăn trưa; và lần sau cùng là 3 giờ chiều, 15 phút uống cà phê. Mỗi lần nghỉ là phải bấm card để quản lý xem mình có nghỉ quá giờ hay không; nếu nghỉ quá giờ, cho dù 5 phút quá giờ, thì sẽ bị trừ lương. Con người ở đây như là cái máy. Tuy nhiên, tôi thấy rất vui, vì trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế mà có việc làm là may mắn lắm rồi. Vả lại còn có tiền gửi về Việt Nam để giúp nhà.
Kỷ niệm đáng nhớ nhất là ngày đầu tiên khi tôi thấy quá nhiều hành tây (trong hai bao bố rất lớn, loại bao mà thời dưới quê tôi thấy họ dùng làm bao gạo trong mấy nhà máy xay lúa), tôi hơi nao núng và hỏi anh chàng giám thị (tức sếp tôi):
– Tôi phải lột hết hai bao này à?
Anh chàng giám thị người Tân Tây Lan tên là Gerry nhún vai nói:
– Dĩ nhiên, đó là công việc của mày mà!
Tôi cảm thấy mình ngây ngô làm sao! Dĩ nhiên, người ta mướn mình vào làm việc đó, chứ còn việc nào khác! Chỉ lột được hai ba củ hành, là nước mắt tôi dàn dụa vì cay mắt. Gerry lại thấy tôi “khóc” bèn đến hỏi: “Mày có sao không?” Tôi trả lời “Không” và dần dần làm xong công việc một cách tốt đẹp. Nhưng chỉ hai ngày sau, sau vài lần thử nghiệm, tôi đã tìm được quy luật lột củ hành mà không rơi nước mắt. Mặc dù đó là một công việc khá nặng nhọc, nhưng tôi vẫn làm việc một cách vui vẻ, và qua đó tôi học được tính tập trung trong khi làm việc cho dù là việc lớn hay nhỏ.
Thỉnh thoảng tôi còn được giao công việc lo kho thực phẩm. Mỗi ngày, tôi ký nhận rất nhiều thực phẩm, thịt thà, rau cải, đồ hộp, đủ cả. Nhận xong là phải sắp xếp vào kho cho thứ tự và có ghi nhãn đàng hoàng. Làm việc ở kho thực phẩm là có dịp học tiếng Anh. Thoạt đầu, tôi rất sợ cái… điện thoại. Số là khi giao hàng hay đặt hàng, người ta gọi điện báo trước và thủ kho phải ghi chép để báo cho người có trách nhiệm lo. Nhưng tiếng Anh của tôi tệ quá và mình cũng nhát, nên không dám bắt điện thoại. Anh chàng thủ kho lớn hơn biết và muốn giúp tôi, nên mỗi lần điện thoại reo là anh ta nói “Điện thoại của mày đó”. Mấy lần đầu tôi chẳng hiểu gì cả, và trả lời thì chắc đằng kia cũng chẳng hiểu mình nói gì. Nhưng chỉ vài ngày là tôi nắm bắt được những danh từ thông dụng và với sự hướng dẫn phát âm của anh thủ kho, tôi bắt đầu thích và yêu cái điện thoại này quá. Khi đã tự tin về ngôn ngữ thì mọi việc đều dễ dàng.
Tuy nhiên, lúc nào tôi cũng bị ám ảnh vì tôi đã khai từng làm trong nhà bếp ở Belmore Hotel ba năm. Một hôm, tôi gõ cửa văn phòng bà giám đốc Georgina Ramsey và chủ động thú nhận là tôi chưa bao giờ có kinh nghiệm nhà bếp. Tôi cứ tưởng bà ta sẽ cho tôi nghỉ việc, nhưng bà ta mỉm cười và nói với tôi rằng bà ta đã biết ngay từ ngày đầu là tôi không có kinh nghiệm gì trong nhà bếp (vì tôi khai trên giấy chỉ mới đến Úc có hai tháng), nhưng thấy hoàn cảnh khó khăn của tôi nên cho tôi cái công việc đó và nghĩ tôi có thể sẽ học hỏi từ từ cho quen việc.
Bà Ramsey còn nói cho tôi biết rằng trong nhà bếp này có rất nhiều người có bằng cấp cao từ các nước Đông Âu khác chứ chẳng riêng gì tôi. Bà khuyên tôi nên yên tâm làm việc và cuộc sống sẽ ổn định thôi. Trong thời gian này, tôi lân la tìm hiểu, và đúng như bà Ramsey nói, có rất nhiều người tị nạn và di dân từ các nước như Nga, Ba Lan, Hi Lạp, Nam Tư, Hong Kong, Trung Quốc, v.v. cũng có cùng số phận như tôi. Tôi càng nao núng hơn khi được biết là phần đông họ đã làm việc cả 10 năm trở lên! Tôi lúc nào cũng xem bà Ramsey là một ân nhân, vì người giúp mình trong lúc khó khăn mới là ân nhân thứ thiệt.

Làm phụ bếp

Sau khoảng ba tháng làm nghề này, tôi được thăng chức làm phụ bếp. Bệnh viện St Vincent’s có khoảng 300 giường. Nhà bếp có năm đầu bếp chính (chief), và mỗi bếp chính có một phụ bếp (cook assistant) như tôi. Nhiệm vụ của tôi lúc này “nhàn” và oai hơn nhiều so với chức vụ trước. Tôi được cấp đồng phục gồm áo trắng, quần tây carô, cái khăn chef quấn ngang cổ, còn đầu đội nón cao vút như nón của bếp trưởng. Trông rất oai! Mấy người bạn làm chung chúc mừng tôi lên chức.
Nhiệm vụ của tôi là chuẩn bị thịt thà, rau cải cho bếp chính. “Chuẩn bị” ở đây có nghĩa là tôi phải xào nấu sơ qua và giao cho bếp trưởng chế biến tiếp. Có khi bếp trưởng bận (hay làm biếng), anh ta giao cho tôi nấu luôn. Thật ra, trước đó tôi đã được được bếp trưởng giao cho làm luôn khâu thứ hai, tức là khâu chế biến. Tôi học rất nhiều cách chế biến của đầu bếp ở đây: họ dùng bơ sữa rất nhiều trong nấu ăn, họ còn dùng rượu để chế biến thức ăn. Làm việc này có cái “lợi” là tha hồ ăn uống. Thịt bò steak muốn ăn thì tự làm và tự thưởng thức thoải mái. Thậm chí có đứa còn năn nỉ nhờ tôi làm cho chúng nó ăn!
Nhưng công việc cũng chịu áp lực. Đây là nhà bếp bệnh viện, nên tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm cực kỳ nghiêm ngặt. Mỗi tuần có hai lần thanh tra, và họ đến không báo trước. Dân nhà bếp chúng tôi rất ngán anh chàng thanh tra này. Thanh tra đi vòng vòng nhà bếp, thấy cái gì không an toàn (như nước nóng chảy mà không có khóa, hay dao để bừa bãi), thiếu vệ sinh (thịt thà không ngăn nắp, rau cải không được xử lý đúng qui trình) là bị phạt ngay. Tôi học ngăn nắp nhà bếp từ cách làm việc và tổ chức trong nhà bếp này từ đó. Cho đến nay, mỗi khi đi đâu mà thấy nhà bếp lượm thượm tôi rất bực mình.
Ngán thanh tra đã là một áp lực, ngán cô kiểm nghiệm thực phẩm còn hơn nữa. Trước khi đem thức ăn cho bệnh nhân ăn thì có một người kiểm tra nhiệt độ và chất lượng. Người kiểm nghiệm là một phụ nữ, mặc áo choàng trắng và có đeo vài đồ nghề đo nhiệt độ, kích thước, v.v. Tôi còn nhớ cô ta có cái nhiệt kế cứ cắm vào soup hay thức ăn để xem nhiệt độ; nếu không đủ nhiệt độ thì tất cả suất ăn phải làm lại. Nếu phạm ba lần thì sẽ bị đuổi. Không có ngoại lệ. Kỷ luật và vệ sinh nhà bếp ở đây phải nói là nghiêm ngặt, và nó cũng giúp mình làm việc gì, dù nhỏ hay lớn, là phải làm cho kỹ và giữ an toàn cho mọi người.
John Street (Cabramatta) một sáng chủ nhật (New York Times)

Thử nghề ở “The Regent”

Làm ở nhà bếp Bệnh viện St Vincent mà tôi vẫn thấy mình còn dư thì giờ. Tôi nghĩ tôi có thể làm nhiều tiền hơn nữa, và thế là tìm chỗ làm ban đêm. Cơ hội đến với tôi khi Khách sạn Regent mới được mở ở Circular Quay (ngay [cầu] Harbour Bridge). Đây là khách sạn năm sao, thời đó được xem là sang trọng nhất Sydney.
Khách sạn Regent cần tuyển rất nhiều nhân viên nhà bếp. Lương mà khách sạn trả thì… khỏi chê. Gần gấp hai lần lương của bệnh viện. Thế là tôi đệ đơn xin đi làm ở khách sạn. Tôi được phỏng vấn, và cách họ phỏng vấn cũng rất độc đáo. Họ hỏi đôi ba câu về cá nhân, rồi dẫn xuống nhà bếp, và xem mình làm ra sao. Họ muốn xem tôi có kinh nghiệm như thế nào trong nhà bếp, cách tôi cầm dụng cụ nhà bếp ra sao, cách tôi giữ an toàn vệ sinh thực phẩm, v.v. Đương nhiên, vì tôi có “kinh nghiệm đầy mình” ở bệnh viện St Vincent’s nên tôi “đánh bại” nhiều ứng viên khác.
Khi vào nhà bếp tôi gặp vài người quen từ trại tị nạn bên Thái Lan. Trong đó có thằng em tên Trạng. Nó được nhận làm trong khâu rửa chén. Hai anh em gặp lại ở đây, nó kinh ngạc nhìn tôi trong đồng phục phụ bếp và hỏi: Anh học nghề này hồi nào vậy? Tôi mỉm cười bí hiểm nói: từ ba tháng trước chớ từ hồi nào, mày làm gì ở đây? Nó nói: em làm bên kia kìa, và chỉ tay về cái máy rửa chén thiệt lớn. Hai anh em “chiến đấu” ở đây một thời gian, thì tôi quay về St Vincent’s vì chịu không nổi hai công việc, và lại làm việc ca đêm mà còn đi học.

Mua xe hơi

Lương của tôi lúc đó là khoảng 200 đô-la một tuần. Sau khi trả tiền phòng, ăn uống, cũng còn khoảng 150 đô-la. Làm một thời gian, tôi có đủ tiền để mua cho mình một chiếc xe ôtô. Tôi và anh bạn tên Sáu Lợi (người “Mr Đu” cũng từ Thái Lan sang đây trước tôi vài tháng) cầm tiền đi mua xế hộp. Sáu Lợi lái xe đưa tôi đi hết dealer (nhà bán xe) này đến dealer khác, mà tôi vẫn không hài lòng.
Đến một dealer ở tận Parramatta, thì tôi thấy một chiếc xe cũ hiệu Toyota Corona đời 1977 (tức mới 5 năm tuổi), giá gần 7000 đô. Tôi ưng ý chiếc xe này lắm lên xe lái thử vài vòng là thấy “êm” rồi, muốn lấy nó về ngay. Nhưng khổ nỗi trong túi tôi chỉ có 5000 đô thôi. Tôi và Sáu Lợi kỳ kèo trả giá, và họ chỉ đồng ý giảm 1000 đô mà thôi, tức tôi vẫn còn thiếu 1000 đô. Sáu Lợi nói “Ông thiếu thì tôi về nhà lấy đưa cho ông mượn”. Sáu Lợi nói thêm: Mua xe là mua loại ngon lành, đừng chơi đồ dỏm mà sau này sửa hoài thì còn tốn tiền hơn. Tôi đồng ý. Trên đường lái xe về nhà, Sáu Lợi đi trước, tôi đi sau. Lần đầu tiên trong đời mình có xe riêng, lại còn tự lái, thong dong trên đường Sydney. Ôi, thú vị làm sao!
Chiếc xe Toyota Corona đó rất ư là “reliable”. Hết tuần này sang tuần khác, tôi chỉ việc đổ xăng và xem nước, và chạy đi khắp nơi. Có chiếc xe hơi trong xã hội này cũng giống như mình có cái xe gắn máy ở Việt Nam. Nó là phương tiện đi lại vô cùng quan trọng. Tôi đã dùng cái xe này gần 15 năm trời, đến khi anh bạn kiểm tra xe khuyên nên cho nó vào ‘nghĩa địa’ vì sườn xe cũ quá. Tuy sườn xe cũ, nhưng máy vẫn chạy ngon ơ. Tôi còn nhớ máy 17-RC làm ở Nhật. Đó là đời xe sau cùng làm ở Nhật, vì sau này những loại xe này được ráp ở Úc.
Thời đó, chi phí sống tương đối tốt. Nếu tôi nhớ không lầm, mỗi lít xăng chỉ tốn 20-30 cent mà thôi (nay là khoảng 1.3-1.4$). Cần nói thêm là một thùng bia Toohey và Swan lúc đó cũng chỉ tốn chừng 5$ (nay là 50$). Dân Việt chúng ta thích chơi xe. Những người trẻ chưa có gia đình, họ làm được bao nhiêu là dành cho chiếc xe xịn. Người Úc bản xứ rất ngạc nhiên khi thấy người tị nạn Việt Nam lái toàn xe mới, trong khi đó họ đi xe cũ. Người địa phương bắt đầu nghi ngờ và ganh tị. Họ phao tin rằng chính phủ Úc cho tiền bọn tị nạn này để chúng mua xe hơi. Tin nhảm như thế mà cũng có người tin! Họ không hiểu rằng người Việt rất thích bề ngoài, nên họ dành nhiều tiền cho những chiếc xe hơi đắt tiền.
Thời đó cũng dễ mua nhà. Một căn nhà ba phòng ngủ thời đó tốn khoảng 50,000$ (nay là 1 triệu đôla). Với mức lương công nhân chừng 300$ một tuần, và nếu hai vợ chồng chỉ cần làm chừng ba năm là có đủ tiền để tậu một căn nhà. Có người chịu khó làm lụng và mua đến hai căn nhà một lúc! Phải nói là người Việt chúng ta chịu khó làm việc và tích lũy tiền khá nhanh so với người địa phương.

Ra toà

Có xe đi lại rất tiện vì không còn lệ thuộc vào xe lửa công cộng nữa. Lúc đó tôi đã đi học, nên lái xe đi làm, xong việc làm thì lái xe đến trường cách St Vincent’s chừng 30 km. Thời đó, đường phố Sydney ít xe, chứ không phải nhiều và kẹt xe thường xuyên như bây giờ nên lái xe rất thoải mái.
Vậy mà tai nạn vẫn xảy ra. Sáng sớm hôm đó, như thường lệ, tôi lái xe đi làm ở bệnh viện St Vincent’s, đến khu Newtown, khu phố cổ với nhiều đường nhỏ tí tẹo vốn thiết kế cho ngựa đi, nên cũng như bao nhiêu người khác tôi lái xe chậm lại. Gần đến một ngã tư có đèn đỏ, khi tôi chạy rất chậm thì một bà đi ngất ngưỡng đâm vào đầu xe tôi. Tôi hoảng quá nên thắng lại ngay, và bà nằm vạ trên đầu xe tôi. Tôi bước xuống xe thì thấy bà là một người thổ dân, hơi rượu nồng nặc. Bà chẳng có thương tích gì, vì không thể có thương tích với một tốc độ 5 km/h như thế. Tôi gọi cảnh sát để làm biên bản, và cảnh sát gọi xe cứu thương đến chở bà đi bệnh viện gần đó là Prince Alfred Hospital. Cảnh sát kết tội “negligence” (lơ đễnh) và chờ ngày ra tòa.
Lần đầu ra tòa là cả một kinh nghiệm. Tôi đến tòa án địa phương sáng sớm và lấy số để được xử sớm. Khi vào tòa, tôi đưa mắt nhìn quanh thì thấy rất nhiều người cũng đang chờ được xét xử. Người ta ăn mặc đủ thứ quần áo… chẳng giống ai. Họ cười nói như chẳng có chuyện gì, còn tôi thì bồn chồn lo cho tương lai của mình sẽ mất bằng lái xe.
Quan tòa đọc tên tôi và xác nhận có phải là chính tôi. Xác nhận danh tánh xong, ông hỏi tôi có luật sư không, tôi nói không. Ông hỏi: “Anh có đủ tiếng Anh để trả lời không?” Tôi nói: “Sẽ cố gắng”. Người ta đưa cho tôi một cuốn Kinh Thánh và bảo phải đọc: “Tôi tuyên bố tôi sẽ nói sự thật, chỉ sự thật, không khác gì hơn là sự thật”. Đọc xong, phía bên cảnh sát họ luận tội tôi và kết luận là lơ đễnh, đề nghị tịch thu bằng lái xe. Thời đó, bằng lái xe cũng chỉ là tạm thôi (loại màu đỏ).
Đến phiên tôi trả lời. Tòa quay sang hỏi tôi có đồng ý với bản luận tôi không. Trước khi ra tòa, tôi đã tìm hiểu tình trạng của bà nạn nhân. Bà ta không nhập viện, vì chẳng có thương tích gì, và được cho về nhà sau 30 phút khám. Cảnh sát cho tôi biết như thế. Do đó, tôi chuẩn bị những câu nói sẵn như “Sir, I was not negligent, because if that was the case, the woman would have been injured. She was not injured and discharged from the hospital within 30 minutes.” (Thưa ngài, tôi không lơ đễnh, vì nếu tôi lơ đễnh thì bà đó đã bị thương rồi. Bà không bị thương và xuất viện trong vòng 30 phút.”
Quan tòa và cảnh sát lại nói gì đó mà tôi không hiểu. Ông tòa quay sang lại hỏi tôi. Tôi cứ một câu mà nói hoài, vì đâu còn câu nào khác. Chỉ có một câu tủ thôi. Đến lần thứ ba, ông quan tòa bật cười ha hả và nói đại khái “Tay này không rành tiếng Anh, phải có luật sư mới công bằng”, rồi gõ cái cốp và phán “Hoãn lại! Ra tòa lần sau”!
Lần sau, người ta tìm cho tôi một luật sư công (vì tôi làm gì có tiền thuê luật sư tư). Ngày ra tòa gần kề thì tôi lại có việc ở Khách sạn Regent nên không dám lấy giờ đi dự tòa vì sợ mất việc. Thế là tòa xử vắng mặt. Tòa phán quyết rằng tôi lơ đễnh, và tịch thu bằng lái xe trong vòng một năm. Thời đó, bằng màu đỏ mà vi phạm giao thông là mất luôn, sau này phải thi lại. Thật ra, sau đó, tôi vẫn lái xe đi làm và đi học, vì nếu không lái xe thì lấy gì để đi học cách nhà cả 30 cây số mà không có xe lửa. Cũng may, trong vòng 12 tháng đó chẳng có cảnh sát nào xét bằng lái vì sau một lần tai nạn thì tôi rất cẩn thận trong lái xe.

Nhớ nhà

Thời đó, bất cứ người tị nạn nào cũng nghĩ rằng sẽ không có ngày quay về Việt Nam. “Một lần đi là một lần vĩnh biệt / một lần đi là mãi mãi chia phôi.” Do đó, ai cũng mang trong lòng tâm trạng nhớ nhà kinh khủng. Mấy năm sau có vài lần đi công tác bên Singapore và Âu châu và tạt ngang qua Thái Lan, tôi cứ nhìn về quê nhà đau đáu. Nhìn về Việt Nam và biết chỉ có một giờ bay thôi, nhưng chưa thể về được. Có đêm nghỉ ở “The Montien” (một khách sạn ở Bangkok tôi hay ở) mà… khóc một mình.
Trong cái bối cảnh đó, có người sáng tác nhạc với những ca từ rất ray rức như: “Sài Gòn ơi, ta có ngờ đâu rằng / Một ngày qua là một ngày ly biệt / Một ngày qua là ta mất nhau rồi / Một ngày qua là muôn kiếp chia phôi.” Nhạc sĩ Việt Dzũng thì có bài “Một chút quà cho quê hương“, còn Đức Huy với bài “Khóc một dòng sông” (Tôi hay nhớ về quê nhà vào buổi chiều / nhất là những buổi chiều mưa rơi / Cũng may Cali trời mưa ít không như Sài Gòn / Nếu không tôi đã khóc một dòng sông…) mà mỗi lần Ngọc Lan trình bày là nhiều người khóc một cách tự nhiên. Có một ca khúc tôi còn nhớ đến nay trong đó có đoạn: “Ôi mẹ yêu ơi, con lang thang giữa phố đông người / Tuy phố đông người, nhưng con lạc loài một bóng đơn côi.” Ngay cả cái nóng bên này cũng làm mình nhớ nhà, nên tôi thuộc nằm lòng một bài ca thịnh hành thời đó:
Nắng bên này buồn lắm em ơi!
Một mình anh lê bước trên đời
Nắng nơi đây cũng là nắng ấm
Nhưng ấm sao bằng nắng ấm quê hương
Phải nói, thời đó có những sáng tác về nỗi nhớ Sài Gòn và Việt Nam rất hay vì tác giả viết ra từ cảm xúc rất thật của họ. Phải chi bây giờ có ai đó [dám] làm một luận án về văn học và âm nhạc thời tị nạn đó thì hay biết mấy, vì đó là một giai đoạn rất đáng ghi vào sử sách Việt Nam.
Bây giờ thì người tị nạn đã có thể về quê tương đối bình thường, nên những lời nhạc trên hơi lỗi thời, và ít người còn ca những bài đó nữa. Tuy nhiên, với tôi những lời nhạc trên dù đã được viết ra hơn 30-40 năm về trước nhưng cho đến nay tôi thấy vẫn phản ảnh đúng tâm trạng của người xa quê, nhất là vào dịp 30/4.

Bối cảnh kinh tế Úc và Việt Nam thập niên 1980

Năm 1982 là thời gian kinh tế Úc lâm vào tình trạng suy thoái. Rất nhiều người mất việc làm. Tỉ lệ thất nghiệp cao hơn 6%. Tiền lời nhà băng cho vay mua nhà lên đến… 15%. Có lẽ nhiều bạn ngạc nhiên là tiền lời gì mà cao như thế, nhưng sự thật là vậy: 13-15%. Do đó, có được việc làm là một ‘thành tựu’ ngon lành, chứ không phải bình thường.
Người tị nạn làm bất cứ việc gì. Bất cứ họ xuất thân là học sinh, sinh viên, nông dân, công nhân, kĩ sư, bác sĩ, luật sư, tất cả đều phải làm lại từ đầu. Lý do là Úc không công nhận bằng cấp từ Việt Nam. Đa số thuyền nhân chẳng có một tấm giấy tùy thân, chẳng có bằng cấp gì mang theo cả. Do đó, công việc đơn giản nhất là làm trong các hãng xưởng kỹ nghệ. Thời đó, Úc còn có ngành kỹ nghệ kha khá, như làm tivi, làm xe hơi, làm động cơ, v.v. nên công ăn việc làm vẫn có dù kinh tế lâm vào tình trạng khó khăn. Đó cũng là những công việc khởi đầu của tuyệt đại đa số người tị nạn. Thời đó, chẳng ai nghĩ đến việc đi học lại, bởi vì kiếm đủ tiền để trả tiền nhà và gửi về nhà là mệt rồi; thời gian đâu mà học lại. Vả lại, khi đã vào làm và có tiền rồi, thì việc quay lại học là chuyện hơi… khó khăn.
Thời đó, kinh tế Việt Nam cũng lâm vào khủng hoảng và nghèo đói. Nhà tôi ở dưới quê tuy chưa bao giờ thiếu gạo ăn, nhưng hàng xóm thì có rất nhiều gia đình không có gạo ăn. Thử tưởng tượng một miền Tây trù phú từng xuất khẩu gạo mà chỉ sau năm năm dưới thể chế mới lại… thiếu gạo ăn! Chuyện không tưởng, nhưng có thật. Mà, chẳng riêng gì gạo, tất cả các nhu yếu phẩm cũng thiếu. Thiếu từ miếng vải đến cây kim. Không phải ngẫu nhiên mà Việt Dũng viết những câu như “Em gởi về cho anh dăm bao thuốc lá / Gởi về cho mẹ dăm chiếc kim may / Gởi về cho chị dăm ba xấp vải / Gởi về cho em kẹo bánh thênh thang / Em gởi về cho anh một cây bút máy / Gởi về cho mẹ dăm gói chè xanh / Gởi về cho chị hộp diêm nhóm lửa / Gởi về cho em chiếc nhẫn yêu thương …” Rất nhiều thùng quà mà trong đó có đủ thứ hàng hóa (quần jean, vải, kim tây, máy cassette, chocolate, thuốc lá) được đóng gói và chuyển về Việt Nam. Thành ra, một trong những ‘nghĩa vụ’ của thuyền nhân thời đó không chỉ ổn định cuộc sống ở quê hương mới mà còn phải có tiền để gửi về quê hương Việt Nam.
Người Việt ở Cabramatta (New York Times)

Một chút suy từ: ‘Một cõi đi về’

Chiến tranh và thù nghịch dai dẳng đã tạo nên một cuộc di cư vĩ đại chưa từng có trong lịch sử Việt Nam. Tôi cũng nằm trong cơn lốc lịch sử đó mà lang thang ra ngoài Việt Nam. Thoát một cái, tôi đã xa quê gần 40 năm. Trong 40 năm đó đã có một, thậm chí hai, thế hệ đã hình thành. Thế hệ mới gần như không biết gì về biến động mang tính lịch sử đó! Tôi nghĩ đó là một thiệt thòi lớn cho giới trẻ. Do đó, những hồi ức như cái note này hi vọng rằng sẽ giúp cho họ có cái nhìn cân bằng và đầy đủ hơn những biến động trong thời gian qua sau cuộc chiến.
Giới trẻ ngày nay may mắn hơn chúng tôi nhiều. Nhìn lại mới thấy sự phá hoại của chiến tranh về trí lực và nhân lực rất ư là ghê gớm. Biết bao bạn bè tôi đã ngã gục trong chiến tranh, đã không có cơ hội theo học cho đến nơi đến chốn, đã phải chấp nhận cuộc sống gian khổ ở Việt Nam, hay đã bỏ mình trên biển Đông. Ngay cả những kẻ sống sót như tôi thì cũng chỉ là thế hệ “trâu chậm uống nước đục”. Một người ngoại quốc trung bình, sống trong cảnh thanh bình có thể đã thành danh và đang ở đỉnh cao của sự nghiệp vào độ tuổi 30 hay 40. Nhưng những kẻ thuộc thế hệ tôi thì chậm hơn nhiều và gian nan hơn nhiều. Với người phương Tây, tuổi 30 là đỉnh, còn với chúng tôi thì “Tuổi ba mươi ta sống tháng ngày xa lạ / tuổi ba mươi ta có quá khứ mịt mù” (lời thơ của Du Tử Lê).
Nhưng tôi vẫn thấy mình quá may mắn. Thật vậy, bây giờ, nhìn lại quãng đường đời và kinh nghiệm mình đã trải qua, tôi cảm thấy bên cạnh nỗi bất hạnh xa quê hương, tôi lại thừa hưởng được một may mắn rất lớn: có cơ hội học tập và tiếp cận với những khoa học hàng đầu thế giới. Các nước phương Tây, đặc biệt là Mỹ và Úc, đã mở rộng cửa đón tôi, cho tôi cơ hội bình đẳng với công dân của họ hầu như trong mọi lĩnh vực, kể cả ở những trường hàng đầu mà tổ tiên của họ đã từng bỏ ra hàng trăm năm để gầy dựng. Họ khen ngợi khi tôi gặt hái chút thành quả. Họ chịu đựng và thông cảm khi tôi khác họ. Nói chung, tôi đã được thụ hưởng những cơ hội mà khi còn ở trong nước tôi chẳng dám mơ tới. Sống sót đã là may mắn, được sống trong lòng khoa học như hiện nay là một may mắn vô ngần.
Nhiều khi tôi nghĩ cuộc đời là những chuyến đi về. Nói văn vẻ hơn là “một cõi đi về”. Cuộc đời tôi có vẻ ứng nghiệm câu này. Việc làm đầu tiên của tôi là ở Bệnh viện St Vincent’s. Mười năm sau, tôi lại quay về Bệnh viện St Vincent’s và vẫn còn ở đó cho đến nay. Hơn 10 năm trước, khi tôi được đề bạt chức vụ professor, người ta muốn làm “PR” và họ phát hiện rằng tôi từng làm trong nhà bếp St Vincent’s. Đó là một chất liệu quan trọng cho người làm PR. Nhưng tôi nói chuyện đó chẳng có gì to tát, bởi vì tất cả người Việt đến đây vào thời đó ai cũng như tôi, tức là bắt đầu bằng những công việc cực nhọc. Cực nhọc nhưng hạnh phúc.
Thuyền nhân người Việt nói chung cũng là một cõi đi về. Ngày xưa, hàng triệu người Việt bỏ nước ra đi, tạo nên làn sóng ‘thuyền nhân’. Rồi mấy mươi năm sau thì lại quay về. Một số đầu tư, một số đóng góp việc này, việc kia. Một số rất ít về Việt Nam tái định cư cho đến ngày qua đời. Nhạc sĩ Phạm Duy từng nói rằng ông muốn qua đời ở Việt Nam, và ông đã nói cho hàng triệu người Việt khác. Nhưng vẫn còn một số ít bị tước đoạt quyền thiêng liêng về thăm quê cha đất tổ, và tôi cho rằng những người tước đoạt cái quyền thiêng liêng đó là phi nhân bản.
Người tị nạn (refugee) khác với người di cư (immigrant). Người tị nạn là người tuyệt vọng, vô quốc tịch, không có tài sản, và họ bị “bứng” khỏi quê hương qua một biến động lịch sử. Người di cư có quốc tịch, họ có tài sản, và họ ra đi một cách tự nguyện. Người tị nạn do đó thường mang trong mình những chấn thương tinh thần. Người tị nạn sống giữa hai thế giới. Một bên là quê hương, nơi chôn nhao cắt rốn; một bên là quê hương tạm dung.
Người tị nạn bị giằng xé tâm tư, một bên là ký ức của quê hương đầy biến động và đau khổ, một bên là đất nước tạm dung giàu có nhưng chưa chắc là thoải mái. Do đó, người tị nạn đã xa rời quê hương, nhưng trong tâm tưởng họ chưa bao giờ rời quê hương. Họ ở đây mà không phải ở đây. Có khi họ về nơi mình sinh ra mà không thấy đó là quê mình. Họ thành đạt về kinh tế, họ có thể có địa vị trong xã hội nơi tạm dung, nhưng cái tâm của họ thì vẫn còn chông chênh. Họ cũng như là những con ma, thể xác đã chết đi nhưng họ vẫn còn lẫn quẫn đâu đây. Người tị nạn lúc nào cũng bị ám ảnh bởi căn cước tính của mình.
Nhà văn Nguyễn Thanh Việt viết rằng “tất cả các cuộc chiến đều diễn ra hai lần; lần thứ nhất là ở chiến trường, lần thứ hai là ở ký ức”. Chiến tranh Việt Nam dù đã kết thúc 44 năm về trước, nhưng đó chỉ là kết thúc trên chiến trường, chứ cuộc chiến ký ức thì vẫn còn tồn tại dai dẵng cho đến ngày nay. Sự hiện diện của những ‘thuyền nhân’ Việt Nam cùng những di sản của họ trên thế giới chính là một ký ức của cuộc chiến Việt Nam.
***

No comments:

Post a Comment